Tim Flach là một nhiếp ảnh gia được biết đến với những bức chân dung ấn tượng, nơi những con vật được đối xử ân cần như những người mẫu nổi tiếng. Nhiếp ảnh gia này đã chụp được những bức ảnh của cả các loài động vật hoang dã cũng như đã được thuần hóa.
Lần này, Tim Flach lại tập trung vào những bức ảnh về loài chim quý hiếm và dưới đây là những tác phẩm nghệ thuật của anh ấy.
Himalayan Monal hay còn gọi là Chim trĩ Himalaya chúng được coi là Quốc điểu của Nepal với bộ lông vô cùng sặc sỡ và quý tộc.
Blue Tit còn được biết tới với cái tên là Sẻ ngô xanh, chúng là một loài chim trong họ Paridae. Loài chim này dễ nhận ra với bộ lông màu xanh da trời vàng. Con trống có một đốm trên đầu phản chiếu tia cực tím, được chúng phô bày trước con mái qua tư thế xù lông ở phía gáy. Loài chim này thường định cư và không di cư, là loài phổ biến và loài sinh sản phổ biến khắp châu âu và Tây Á ôn đới và cận cực trong rừng rụng lá hoặc rừng hỗn hợp với một tỷ lệ cao của gỗ sồi. Chúng thường làm tổ trong lỗ cây, mặc dù chúng dễ dàng thích ứng với các hộp làm tổ ở những nơi cần thiết. Các đối thủ chính cho các tổ và tìm kiếm thức ăn là lớn hơn nhiều sẻ ngô lớn. Sẻ ngô xanh thích ăn côn trùng và nhện. Ngoài mùa sinh sản, chúng còn ăn cả hạt giống và thực vật dựa trên các thực phẩm khác. Sẻ ngô xanh nổi tiếng với kỹ năng bám vào các nhánh cây ngoài cùng và treo ngược xuống khi tìm kiếm thức ăn.
Inca Tern - Mòng biển Inca là một loài chim trong họ Laridae. Loài chim biển này chủ yếu sinh sống tại các vùng biển ở Peru và Chile. Chúng có lông màu xám, chân và mỏ màu vàng cam, đặc biệt có hai hàng ria trắng nối dài từ phần mỏ. Hiện nay, chỉ còn khoảng 150.000 cá thể do môi trường sống bị đe dọa nghiêm trọng. Mòng biển Inca sinh sản trên những vách đá. Chúng xây tổ trong các hang rỗng hoặc đôi khi dùng tổ cũ của chim cánh cụt Humboldt, và đẻ một hoặc hai quả trứng. Những quả trứng được ấp trong khoảng 4 tuần, và chim non rời tổ sau 7 tuần.
Gouldian Finch là một loài chim đặc hữu ở Australia, thuộc họ Estrildidae. Chúng còn được biết tới với cái tên khác là Chim 7 màu, loài chim này được phát hiện lần đầu tiên vào năm 1845 bởi nhà tự nhiên học người anh có tên là John Gould. Vì nhiều nguyên nhân khác nhau, từ thế kỷ 20 đã chứng kiến sự suy giảm nhanh chóng của số lượng chim 7 màu ngoài tự nhiên. Các nhà khoa học ước tính chỉ có khoảng 2500 cá thể chim trưởng thành còn tồn tại trong môi trường hoang dã. Vì vậy năm 1992, nó được phân loại là loài nguy cấp theo tiêu chí C2ai của IUCN.
Silver Laced Polish Chicken
Major Mitchell là một loài vẹt rất dễ thuần hóa và rất quấn chủ, chúng nổi tiếng là giống chim “chỉ có một chủ”.
Northern Red Cardinal
Jacobin Pigeon: Bồ câu Jacobin là một loại bồ câu nhà thuộc là giống chim bồ câu cảnh được thuần hóa tại châu Á với đặc trưng là bộ lông giống sư tử. Là một trong những giống chim bồ câu thuần hóa lâu đời nhất thế giới, cùng với nhiều loài chim bồ câu được thuần hóa khác, chúng là hậu duệ của chim gầm ghì đá (Columba livia), chúng có nguồn gốc từ Ấn Độ hoặc là loài bản địa của đảo Síp. Chúng xuất hiện ở châu Âu từ khoảng thế kỷ 16, sau đó được trải qua 4 giai đoạn phát triển do các chuyên gia lai tạo thực hiện.
Philippine Eagle: Đại bàng Philippines, còn được gọi là Đại bàng lớn Philippine hay Đại bàng ăn thịt khỉ, là một trong những loài chim cao nhất, hiếm nhất, lớn nhất, mạnh mẽ nhất thế giới. Loài chim này được coi là Quốc điểu của đất nước Philippines. Đây là chim săn mồi ăn thị thuộc Họ Accipitridae, được phát hiện vào năm 1896 bởi nhà thám hiểm và nhà tự nhiên học người Anh John Whitehead, người đã quan sát các loài chim và người phục vụ của ông là Juan đã thu thập các mẫu vật đầu tiên một vài tuần sau đó. Da của mẫu thu thập được đã được gửi đến William Robert Ogilvie-Grant tại Luân Đôn vào năm 1896, người ban đầu cho thấy nó và mô tả các loài một vài tuần sau đó.
Black Jacobin Pigeon
Longtail Broadbill: Đây là một loài chim trong họ Eurylaimidae và được biết tới với cái tên khác là Mỏ rộng xanh sinh sống ở Hymalaya, Đông Nam Á. Chim trưởng thành bộ lông có màu xanh lục thẫm, đầu và gáy có màu đen, hai bên gáy có hai vệt vàng nhạt. Mặt, họng, vòng cổ vàng nghệ. Lông cánh sơ cấp và thứ cấp màu đen, xanh lục và lúc bay nhìn thấy có vệt trắng. Lông đuôi dài và hẹp, có màu xanh thẫm ở trên và đen ở dưới. Chim non có màu tối hơn và đầu xanh Chim trưởng thành bộ lông có màu xanh lục thẫm, đầu và gáy có màu đen. Loài chim này sống định cư và làm tổ ở rừng rậm những nơi có độ cao khoảng dướí 1500 - 1800m. Thường gặp kiếm ăn và làm tổ ở tầng trên của rừng.
Victoria Crowned Pigeon
Egyptian Vulture: Kền kền Ai Cập hay còn gọi là Kền kền ăn xác thối là một loài kền kền nhỏ thuộc nhóm kền kền Cựu thế giới, được tìm thấy từ miền bắc châu Phi cho đến miền tây nam châu Á. Nó là thành viên duy nhất của chi Neophron trong họ Accipitridae.
Toco Toucan là loài chim phổ biến nhất trong các loài thuộc họ Toucan, tuy có nguồn gốc từ khu rừng nhiệt đới ở Nam Mĩ nhưng hiện nay chúng phân bố ở rất nhiều nơi khác trên thế giới. Điều khiến Toco Toucan trở thành một trong những loài chim được biết đến nhiều nhất chính là nhờ chiếc mỏ lớn, đầy màu sắc của chúng.
Grey Crowned Crane
Red Splash Jacobin Pigeon
Shoebill: Cò mỏ giày là một loài chim thuộc họ Balaenicipitidae. Cò mỏ giày tạo thành họ đơn loài Balaenicipitidae, thường được đặt trong bộ Ciconiiformes truyền thống, nhưng thực tế nó là dòng dõi rất khác biệt của bộ Pelecaniformes. Con chim trưởng thành cao 115 - 150 cm, dài 100 - 140 cm, sải cánh dài 230 - 260 cm và nặng 4 - 7 kg.
Andean Cock Of The Rock: Nó còn được gọi với cái tên khác là Rupicola peruvianus, chúng là một loài chim kích thước trung bình trong họ Cotingidae, gốc ở các khu rừng sương mù Andes thuộc Nam Mỹ. Nó là quốc điểu của Peru.
King Vulture: Kền kền vua là một loài chim thuộc họ Kền kền Tân thế giới. Kền kền vua có phạm vi sinh sống từ miền nam México tới miền bắc Argentina. Loài kền kền này sống chủ yếu ở các khu rừng đất thấp nhiệt đới trải dài từ miền Nam Mexico tới miền bắc Argentina.
Vultrurine Guineafowl Hen
Nicobar Pigeon
Bearded Tit
Silver-Laced Rooster
Crested Miniature Duck