Dư luận xôn xao trước thông tin Trung Quốc thu nhận tín hiệu lạ cho là đến từ người ngoài hành tinh, trong khi một số quan chức Mỹ cho biết: "Người ngoài hành tinh có thể đã đến Trái đất".
Các nhà khoa học tin rằng, trong Dải Ngân Hà rộng lớn tồn tại một sự sống giống hành tinh của chúng ta. Xuyên suốt tiến trình lịch sử, rất nhiều lần các quốc gia trên thế giới đã hé lộ thông tin nghiên cứu được cho là có liên quan đến người ngoài hành tinh.
Những tín hiệu vô tuyến từ không gian
Các nhà khoa học Trung Quốc gần đây đã tuyên bố rằng, kính thiên văn khổng lồ "Sky Eye" của họ có thể đã thu được tín hiệu dấu vết từ một nền văn minh xa lạ ngoài hành tinh. Theo đó, các tín hiệu được thu nhận bởi Kính viễn vọng vô tuyến hình cầu có khẩu độ 500 mét của Trung Quốc, có biệt danh là "Sky Eye", là kính viễn vọng vô tuyến lớn nhất trên thế giới.
Vì tín hiệu là sóng vô tuyến băng tần hẹp thường chỉ được sử dụng bởi máy bay và vệ tinh của con người, các nhà khoa học tin rằng chúng có thể được tạo ra bởi công nghệ của người ngoài hành tinh.
Tuy nhiên, chuyên gia cho biết phát hiện của họ chỉ là sơ bộ và cần được thực hiện một cách thận trọng cho đến khi quá trình phân tích hoàn tất.
Zhang Tongjie, nhà khoa học đứng đầu Nhóm Nghiên cứu Văn minh Ngoài Trái đất tại Đại học Sư phạm Bắc Kinh, chia sẻ với tờ Science and Technology Daily: "Đây là một số tín hiệu điện từ dải hẹp khác với trước đây được thu nhận và nhóm nghiên cứu hiện đang tiến hành điều tra thêm".
"Khả năng tín hiệu đáng ngờ là một loại nhiễu sóng vô tuyến nào đó cũng rất cao và nó cần được xác nhận thêm và loại trừ. Đây có thể là một quá trình lâu dài", ông cho biết thêm.
Trong báo cáo mới nhất gửi đến nhật báo Khoa học và Công nghệ, Zhang Tongjie đã cho biết, tín hiệu đáng ngờ đó có thể không đến từ người ngoài hành tinh mà chỉ đơn thuần là do nhiễu sóng vô tuyến.
Có thể nhật báo Khoa học và Công nghệ đã vội vã đăng tin và kết luận về dấu hiệu của nền văn minh ngoài Trái đất sau khi nhận được tín hiệu lạ mà chưa được xác minh bởi bên thứ ba.
Đây không phải là lần đầu tiên các nhà khoa học thu nhận được tín hiệu vô tuyến hẹp từ không gian sâu.
Vào tháng 8/1977, một cuộc "Tìm kiếm Trí thông minh Ngoài Trái đất" (SETI) được thực hiện bởi kính thiên văn Big Ear của Đại học Bang Ohio đã thu được một vụ nổ điện từ cực mạnh, kéo dài một phút, bùng lên ở tần số mà các nhà khoa học nghi ngờ có thể được sử dụng bởi các nền văn minh ngoài hành tinh.
Khi phát hiện ra tín hiệu trên một bản in dữ liệu, nhà khoa học Jerry Ehman đã làm việc và quan sát thêm từ kính viễn vọng Big Ear ngay đêm đó nhằm phát hiện thêm những dữ liệu phục vụ trong quá trình phân tích.
Tuy nhiên, các tìm kiếm tiếp theo trong khu vực không gian trên đều trở về tay không và nghiên cứu sau đó cho rằng tín hiệu có thể đến từ một ngôi sao giống Mặt Trời nằm trong chòm sao Nhân Mã. Cho đến nay, nguồn của tín hiệu vẫn còn là một bí ẩn.
Vào năm 2019, các nhà thiên văn học đã phát hiện ra một tín hiệu được truyền tới Trái đất từ Proxima Centauri - hệ sao gần nhất với Mặt Trời của chúng ta (cách Trái đất khoảng 4,2 năm ánh sáng), các nhà khoa học cho biết, đây là nơi có ít nhất một hành tinh tiềm năng có thể sinh sống được.
Tín hiệu là một sóng vô tuyến băng tần hẹp thường được kết hợp với các vật thể do con người tạo ra, khiến các chuyên gia đưa ra nhiều suy đoán thú vị cho rằng nó đến từ công nghệ của người ngoài hành tinh.
Các nghiên cứu mới được công bố hai năm sau đó cho thấy tín hiệu rất có thể được tạo ra bởi công nghệ của con người bị trục trặc kỹ thuật.
Bên cạnh đó, một bộ tín hiệu nổi tiếng khác từng được cho là đến từ người ngoài hành tinh, được phát hiện từ năm 2011 đến năm 2014. Nguyên nhân thực sự được tạo ra bởi các nhà khoa học nấu bữa trưa bằng lò vi sóng.
Tonjie đã nói thêm rằng nhóm của ông đang có kế hoạch quan sát lặp lại các tín hiệu lạ để loại trừ dứt điểm mọi nhiễu sóng vô tuyến và thu được càng nhiều thông tin về chúng càng tốt.
Chia sẻ với tờ Science and Technology Daily, nhà khoa học Tongjie cho biết: "Chúng tôi mong muốn kính thiên văn FAST là chiếc đầu tiên phát hiện và xác nhận sự tồn tại của các nền văn minh ngoài Trái đất".
Sự khác biệt giữa phạm vi và tuổi của vũ trụ và sự thiếu hụt rõ ràng của các dạng sống thông minh bên ngoài Trái đất - được gọi là Nghịch lý Fermi, từ lâu đã gây khó khăn cho các nhà khoa học nghiên cứu về vũ trụ.
Nghịch lý này lấy tên từ những suy ngẫm bình thường vào giờ ăn trưa của nhà vật lý đoạt giải Nobel Enrico Fermi, người sau khi suy ngẫm về câu hỏi hóc búa, được cho là đã nhận xét "vậy mọi người đang ở đâu?"
"Có thể là người ngoài hành tinh đã rơi xuống Trái đất"
Ngày 17/5 vừa qua, Quốc hội Mỹ đã tổ chức một cuộc điều trần về thông tin của Chính phủ liên quan đến liên quan đến "các hiện tượng trên không không xác định" (UAP).
Các cuộc thảo luận tại phiên điều trần gần đây đều xoay quanh các mối đe dọa tiềm tàng từ UAP, do Chính phủ Mỹ nghi ngờ chúng là những trang thiết bị công nghệ cao do con người tạo ra và đe dọa đến vùng trời của Mỹ, song một vài Nghị sĩ và người trong quân đội Mỹ nghi ngờ rằng đó là từ người ngoài hành tinh.
Như Nghị sĩ Đảng Cộng hòa Tim Burchett tuyên bố trước phiên điều trần: "Có thể là người ngoài hành tinh đã rơi xuống Trái đất và Chính phủ Mỹ chỉ đang che đậy nó".
Trong suốt hơn một thập kỷ qua, các nhà khoa học đã sử dụng kính thiên văn vô tuyến để thực hiện các thí nghiệm đa dạng nhằm tìm kiếm các cấu trúc công nghệ - được coi dấu hiệu để phát hiện nền văn minh khác trong dải ngân hà.
Mặc dù các nhà khoa học tin rằng, sự sống gần như chắc chắn sẽ tồn tại giữa hàng nghìn tỷ hành tinh trong vũ trụ. Thể tích khổng lồ của nó khiến việc du hành giữa các vì sao, nhận tín hiệu hoặc giao tiếp với bất kỳ dạng sống tiềm năng nào ở rất xa là điều vô cùng khó khăn theo những quy luật vật lý mà con người đã biết.
Lý do được đưa ra bởi tốc độ giới hạn ở vận tốc ánh sáng là khoảng 300.000 km/s. Nhưng ngay cả với tốc độ đó, tín hiệu sẽ mất khoảng 4 năm để di chuyển giữa Trái đất và ngôi sao gần nhất trong thiên hà.
Thuyết tương đối hẹp của Einstein cho chúng ta biết rằng, trong thực tế, tốc độ của một vật thể vật chất như tàu vũ trụ sẽ chậm hơn tốc độ ánh sáng.
Vì vậy, đối với các hành tinh cách chúng ta hàng trăm hoặc hàng nghìn năm ánh sáng, thời gian du hành có thể lên tới hàng nghìn năm. Và bất kỳ tín hiệu nào bắt nguồn từ các nền văn minh trên các hành tinh đó đều cực kỳ yếu và khó phát hiện.
Một câu hỏi được các nhà khoa học đặt ra là liệu chúng ta có nghĩ rằng một phi thuyền của người ngoài hành tinh có thể du hành hàng nghìn năm, xuyên qua các khoảng cách giữa các vì sao, mạnh mẽ hơn và được thiết kế tốt hơn máy bay của chúng ta?
Nhờ các radar liên tục quét không gian, hàng tỷ máy ảnh điện thoại di động và hàng trăm nghìn nhà thiên văn nghiệp dư chụp ảnh bầu trời (cũng như các nhà thiên văn chuyên nghiệp với kính viễn vọng mạnh mẽ), cần phải có rất nhiều bằng chứng thực tốt về người ngoài hành tinh trong tay của công chúng và các nhà khoa học, không chỉ các Chính phủ.
Dự án sách xanh cho biết có thể đã nhìn thấy đĩa bay
Lần đầu tiên con người nhìn thấy UFO xảy ra vào năm 1947, khi doanh nhân Kenneth Arnold tuyên bố ông đã nhìn thấy một nhóm gồm 9 vật thể tốc độ cao gần Núi Rainier ở Washington, khi ông đang lái chiếc máy bay nhỏ của mình trên bầu trời.
Arnold ước tính tốc độ của các vật thể hình lưỡi liềm là vài nghìn dặm một giờ và nói rằng chúng di chuyển "giống như những chiếc đĩa trượt trên mặt nước".
Năm 1948 Lực lượng Không quân Mỹ đã bắt đầu một cuộc điều tra về những báo cáo này được gọi là Dự án Sách Xanh. Ý kiến ban đầu của những người tham gia dự án cho rằng Vật thể bay không xác định (UFO) rất có thể là máy bay công nghệ cao từ thời Liên Xô cũ.
Song một số nhà nghiên cứu cho rằng chúng có thể là tàu vũ trụ đến từ các thế giới khác, được gọi là giả thuyết về người ngoài Trái đất (ETH).
Từ năm 1952 đến năm 1969, dự án Project Blue Book đã tổng hợp các báo cáo về hơn 12.000 lần nhìn thấy các hiện tượng lạ được phân loại thành 2 loại.
Loại 1 được xác định bao gồm hiện tượng thiên văn, khí quyển hoặc nhân tạo và loại 2 bao gồm các trường hợp không có đủ thông tin để xác định một hiện tượng đã biết.
Hiện tượng lạ xảy ra gần sân bay quốc gia Mỹ
Vào mùa hè năm 1952, một loạt radar và cảnh tượng kỳ đã xảy ra gần Sân bay Quốc gia ở Washington, DC. Theo đó radar đã phát hiện nhiều vật thể lạ trên màn hình. Mặc dù những sự kiện này được cho là do sự chênh lệch nhiệt độ trong không khí trong thành phố.
Trong khi đó, số lượng báo cáo về UFO đã tăng lên mức cao kỷ lục. Điều này khiến Cơ quan Tình báo Trung Ương buộc chính phủ Mỹ thành lập một hội đồng chuyên gia gồm các nhà khoa học để điều tra các hiện tượng.
Ban hội thẩm do nhà vật lý H.P.Robertson tại Viện Công nghệ California ở Pasadena, California, Mỹ cùng nhiều các nhà vật lý khác, một nhà thiên văn học và một kỹ sư tên lửa.
Hội đồng Robertson đã họp trong ba ngày vào năm 1953 và phỏng vấn các sĩ quan quân đội và người đứng đầu Dự án Sách Xanh, đồng thời xem xét phim và ảnh chụp UFO.
Kết luận của cho biết, 90% số lần nhìn thấy các hiện tượng lạ được quy cho các hiện tượng thiên văn và khí tượng như các hành tinh, ngôi sao sáng, thiên thạch, cực quang và đám mây ion hoặc các vật thể trên đất như máy bay, bóng bay, chim bay.
Bên cạnh đó, không có mối đe dọa bảo mật rõ ràng nào và không có bằng chứng để cho giả thuyết ETH. Các phần trong báo cáo của ban hội thẩm được giữ bí mật cho đến năm 1979, và khoảng thời gian dài giữ bí mật này đã làm dấy lên những nghi ngờ về sự che đậy của Chính phủ.