Chương trình Apollo đưa con người đặt chân lên Mặt Trăng là thành quả từ công sức và sự hy sinh thầm lặng của hàng trăm nghìn người.
Ngày 20/7/1969 ghi dấu trong lịch sử nhân loại khi tàu Apollo 11 hạ cánh xuống Mặt Trăng. Để Neil Armstrong cắm lá cờ Mỹ lên bề mặt Mặt Trăng, ghi dấu chân đầu tiên lên đó, một kế hoạch được nghiên cứu bài bản, vận hành bởi hàng nghìn con người. Chương trình đặc biệt này cũng có nhiều con số đáng nhớ.
Neil Armstrong cắm lá cờ Mỹ lên bề mặt Mặt Trăng. (Ảnh: NASA).
400.000 người hỗ trợ một người
Neil Armstrong là một trong những phi công xuất sắc của NASA. Khi ông bay xuống bề mặt Mặt Trăng vào ngày 20/7/1969, lần hạ cánh đầu tiên thành công hay thất bại đều phụ thuộc vào kỹ năng, khả năng phản ứng và sự thành thạo của người đàn ông này. Với cánh đồng sỏi đá trước mặt, chuông báo động kêu inh ỏi và nhiên liệu gần hết, Armstrong đã điều khiển tàu vũ trụ tiếp đất.
Nhưng trong một số cuộc trò chuyện và phỏng vấn về hoạt động tiếp đất, Armstrong luôn tỏ ra khiêm tốn khi nhắc đến thành tựu lịch sử này. Thay vào đó, ông nhấn mạnh có hàng trăm nghìn người góp phần làm nên thành công của chương trình.
NASA ước tính có tổng cộng 400.000 người đàn ông và phụ nữ trên khắp nước Mỹ tham gia chương trình Apollo, từ các phi hành gia, chuyên viên kiểm soát chuyến bay, nhà thầu tới nhà cung ứng thực phẩm, kỹ sư, nhà khoa học, bác sĩ, y tá, nhà toán học và lập trình viên.
Các chuyên viên kiểm soát chuyến bay theo dõi hành trình của tàu Apollo 11. (Ảnh: NASA).
Nhìn từ chuyến bay Apollo 11 - chuyến bay giúp con người đáp xuống Mặt Trăng. Armstrong không chỉ nhận hỗ trợ đắc lực của Buzz Aldrin trên tàu, ở mặt đất còn có một căn phòng chứa đầy chuyên viên kiểm soát chuyến bay. Ở mỗi ca trực, ngoài đội ngũ nòng cốt khoảng 20 - 30 người còn là hàng trăm kỹ sư ở Houston và nhóm chuyên gia ở Viện Công nghệ Massachusett tại Boston túc trực để tư vấn mỗi khi máy tính phát báo động.
Trung tâm điều khiển chuyến bay được hỗ trợ bởi các trạm liên lạc mặt đất trên khắp thế giới, đội ngũ kỹ sư chế tạo khoang đổ bộ ở tập đoàn Grumman và tất cả nhà thầu phụ. Bên cạnh đó còn có đội ngũ hỗ trợ từ quản lý cao cấp tới người bán cà phê, số lượng đã lên tới hàng nghìn người. Nhân con số đó với mọi bộ phận khác của dự án gồm (tên lửa, bộ đồ phi hành gia, liên lạc, nhiên liệu, thiết kế, huấn luyện, từ khi phóng tàu tới khi trở lại Trái Đất...) khoảng 400.000 người dường như vẫn còn khiêm tốn. Tất cả trong số này đã hỗ trợ cho hành động của người đàn ông duy nhất.
Tuổi trung bình các phi hành gia chương trình Apollo: 38
Armstrong không phải phi công được lựa chọn đặc biệt cho lần hạ cánh đầu tiên trên Mặt Trăng, phi hành đoàn của ông là lựa chọn kế tiếp trong chu trình luân phiên. Nếu tàu Apollo 11 không thể tiếp đất, nhiều khả năng Pete Conrad, chỉ huy tàu Apollo 12, sẽ là người đàn ông đầu tiên đáp xuống Mặt Trăng. Thực tế, dù đại diện cho toàn bộ nhân loại, các phi hành gia trong chương trình Apollo có độ tuổi, tiểu sử, năng lực và chương trình huấn luyện giống nhau.
"Theo tôi điều quan trọng mà chúng ta cần nhớ tới là nhóm người tham gia dự án Apollo độc đáo và được lựa chọn kỹ lưỡng tới mức nào", Teasel Muir-Harmony, người phụ trách trưng bày về tàu vũ trụ Apollo ở Bảo tàng Hàng không Vũ trụ Quốc gia Smithsonian ở Washington DC, chia sẻ. Mỗi thành viên phi hành đoàn Apollo 11 đều sinh năm 1930, họ đều từng ở trong quân ngũ, là phi công.
Khi đó Armstrong ở tuổi 38, là đồng chỉ huy trẻ nhất trên tàu Apollo (cùng với Tom Stafford và Gene Cernan). Charlie Duke, phi công 36 tuổi điều khiển khoang hạ cánh của tàu Apollo 16, là người trẻ nhất đặt chân trên Mặt Trăng. Người lớn tuổi nhất bước đi trên Mặt Trăng là phi hành gia Alan Shepard, bay trên tàu Apollo 14 vào năm 1971. Khi đó Shepard 47 tuổi.
12 phi hành gia từng đặt chân và lái xe trên Mặt Trăng
Bức ảnh Buzz Aldrin đứng trên Mặt Trăng do Neil Armstrong chụp. (Ảnh: NASA).
Có 33 phi hành gia thực hiện các chuyến bay trong chương trình đổ bộ Mặt Trăng Apollo. Trong số đó, 27 người bay tới Mặt Trăng, 24 người bay quanh quỹ đạo Mặt Trăng nhưng chỉ có 12 người đặt chân lên bề mặt. Họ đại diện cho "nhân loại" và phải đối mặt với thách thức là truyền tải được kinh nghiệm đó cho khán giả toàn cầu.
8 phi hành gia NASA thiệt mạng trong chương trình Apollo
Trước khi phi hành đoàn gồm ba người đầu tiên của nhiệm vụ Apollo 7 khởi hành vào tháng 10/1968, 8 phi hành gia trong chương trình Apollo đã thiệt mạng. Người đầu tiên mất vào năm 1964 là Theodore Freeman khi máy bay của ông, phi cơ huấn luyện T-38, va vào một con chim, làm vỡ kính che buồng lái và động cơ ngừng hoạt động. Dù thoát ra, Freeman ở quá gần mặt đất và chết do lực va chạm.
Vào ngày 28/2/1966, phi hành đoàn chính trong nhiệm vụ Gemini 9, Elliot See và Charles Bassett chuẩn bị đáp phi cơ T-38 xuống St Louis. Do mây mù che khuất đường băng, See định vị nhầm một ngã rẽ và đâm vào tòa nhà nơi tàu vũ trụ của họ đang được chế tạo. Hai phi công thiệt mạng ngay lập tức.
Năm 1967, NASA chuẩn bị phóng tàu Apollo đầu tiên. Nhưng tàu vũ trụ liên tục hỏng và chỉ huy Gus Grissom biết rõ điều đó. Với tâm trạng vô cùng khó chịu, ông treo một quả chanh bên ngoài khoang giả lập tàu Apollo ở căn cứ Cape Canaveral.
Vào ngày 27/1/1967, phi hành đoàn gồm Grissom, Ed White (người Mỹ đầu tiên đi bộ ngoài vũ trụ) và Roger Chaffee, nằm ở ghế trên bệ phóng để thử nghiệm toàn phần tàu vũ trụ. Việc thử nghiệm đã thất bại. Trong vòng vài giây, ngọn lửa bùng lên thiêu sống phi hành đoàn.
Cuối năm đó, Clifton Williams thiệt mạng trong một vụ rơi phi cơ T-38 khác và Edward Givens qua đời trong một tai nạn giao thông. Cả 8 phi hành gia cùng với 6 nhà du hành vũ trụ của Xô Viết được tưởng niệm bằng một tấm bia do phi hành đoàn tàu Apollo 15 để lại trên Mặt Trăng.
Chỉ một phụ nữ có mặt trong phòng điều khiển vụ phóng tàu Apollo 11
Chuyên viên kiểm soát trang thiết bị, JoAnn Morgan, là người phụ nữ duy nhất trong phòng điều khiển vụ phóng Apollo 11 ở căn cứ Cape Canaveral. Là kỹ sư, bà phụ khách 21 kênh liên lạc cũng như độ ổn định của mọi hệ thống theo dõi tên lửa Saturn 5. "Phóng tàu là một vụ nổ có kiểm soát. Bạn luôn cảm thấy e sợ đôi chút nhưng bạn vẫn phải trông chừng nó", Morgan nói.
Là một trong số ít những người phụ nữ làm việc ở vị trí cao cấp, Morgan thường xuyên phải đương đầu với sự phân biệt giới tính, đặc biệt khi bà bắt đầu công việc. "Tôi nhận được những cuộc gọi tục tĩu, một số bình luận khiếm nhã trong thang máy và đụng chạm ở khu ăn uống. Sau một thời gian, phần lớn những hành động đó không còn nữa vì mọi người nhận ra tôi làm việc rất nghiêm túc", Morgan kể lại.