Trên 80% ung thư đầu cổ liên quan đến hút thuốc, các hoạt chất phòng bệnh có nhiều trong nghệ, trà xanh, lựu, rau củ màu cam và xanh đậm...
Ung thư đầu cổ chiếm tỷ lệ 3-5% trong các loại ung thư. Thống kê năm 2009 tại Mỹ có hơn 48.000 người bị ung thư đầu cổ, tỷ lệ tử vong ước tính trên 11.200 ca. Trên 80% ung thư đầu cổ liên quan đến hút thuốc. Vừa hút thuốc vừa uống rượu càng làm tăng cao nguy cơ. Do đó để phòng ngừa ung thư nói chung và ung thư đầu cổ nói riêng, điều cần làm đầu tiên là loại bỏ hai yếu tố nguy cơ này.
Dù có nhiều tiến bộ trong chẩn đoán, phát hiện sớm cũng như điều trị ung thư đầu cổ, kết quả sống còn của người bệnh ung thư này chỉ cải thiện trong khoảng 3 thập niên gần đây. Đến nay đã có nhiều nghiên cứu xác định vai trò của một số chất trong tự nhiên hoặc được tổng hợp có khả năng ức chế, trì hoãn hoặc làm đảo ngược các bước của tiến trình chuyển từ "tổn thương tiền ung" thành ung thư xâm lấn. Các chất này còn có tác dụng phòng ngừa ung thư nguyên phát và phòng ngừa tái phát sau điều trị.
Hiện có trên 200 chất đã được nghiên cứu là có tác dụng phòng ngừa ung thư. Một số chất sẵn có trong tự nhiên hoặc tổng hợp đang được sử dụng rộng rãi để phòng ngừa ung thư đầu cổ như sau:
Retinoids
Một số thực phẩm giàu vitamin A. (Ảnh: betterhealth).
Retinoids bao gồm vitamin A và các dẫn xuất của nó. Retinoids được nghiên cứu từ lâu là chất có khả năng phòng ngừa ung thư. Chúng gắn kết với các thụ thể đặc hiệu và điều hòa biểu hiện gen, do đó ảnh hưởng đến sự tăng trưởng tế bào ung thư, tiền ung thư, sự biệt hóa và chết tế bào theo lập trình. Nghiên cứu retinoids tổng hợp trên bệnh nhân bạch sản miệng, kết quả tổn thương giảm hoàn toàn 43%.
Retinoids có nhiều trong các thực phẩm có nguồn gốc từ động vật như thịt, cá, gan, trứng, bơ, sữa toàn phần...
Beta carotene
Beta carotene (tiền chất vitamin A) là chất chống oxy hóa, hiện diện nhiều trong các loại rau củ quả có màu sắc vàng, cam đậm, xanh lá, ví dụ như rau xanh đậm, quả gấc, cà rốt, bí đỏ… Nghiên cứu trên bệnh nhân bạch sản miệng sử dụng beta carotene 30 mg một ngày cùng với vitamin C, vitamin E trong thời gian chín tháng, giúp cải thiện tổn thương đến 56%.
Vitamin E
Là loại vitamin hòa tan trong mỡ và có đặc tính chống oxy hóa. Vitamin E có nhiều trong các loại thực phẩm như hạt, dầu thực vật, dầu ô liu, lê tàu.
Các nghiên cứu cho thấy vitamin E có khả năng ức chế sự phát triển của một số loại ung thư như vú, tiền liệt tuyến và ung thư đầu cổ. Nghiên cứu thử nghiệm đối với bệnh tăng sừng khoang miệng cho thấy 46% trường hợp tổn thương thoái triển, dung nhận thuốc rất tốt.
Selenium
Selenium là vi chất hiếm cần thiết cho chức năng tế bào. Sau khi được hấp thu, chúng kết hợp với protein tạo thành hợp chất selenoproteins. Đây là chất chống oxy hóa, ngăn tổn thương tế bào do các gốc tự do. Selenoprotein còn có vai trò điều hòa chức năng tuyến giáp và hệ miễn dịch, ngăn chặn hoặc làm chậm tăng trưởng tế bào bằng cách tăng khả năng miễn dịch tế bào và kháng tăng sinh mạch bướu.
Tại Ấn Độ, những bệnh nhân sử dụng selenium liều thấp có tỷ lệ ung thư tăng so bệnh nhân sử dụng selenium liều cao. Bệnh nhân đang điều trị ung thư được cung cấp 200 mg selenium giúp tăng cường miễn dịch tế bào và hiệu quả độc tế bào trên bướu.
Sử dụng thuốc selenium cần có chỉ định của bác sĩ vì nếu sử dụng lượng lớn selenium có thể gây ngộ độc. Ở thực vật, selen có nhiều trong các cây họ đậu, cà phê, tỏi ta, táo, lê, ngũ cốc, củ cải trắng, cải bắp, lúa mì và một vài loại nấm. Trong động vật selen có nhiều trong cá, tôm, cua, sò, ốc, thịt. Đặc biệt da và gan các loài cá là nơi chứa hàm lượng selen nhiều nhất, tiếp đến là trong tôm đồng, thịt lợn nạc và lòng đỏ trứng gà.
Chiết xuất trà xanh
Trà xanh chứa hoạt chất có khả năng kháng bướu. (Ảnh: bbcgoodfood).
Trong trà xanh có chứa chất EGCG, có khả năng kháng bướu vì ngăn chặn phosphoryl hóa yếu tố EGFR thường gặp trong đa số loại ung thư. Biểu hiện quá mức của EGFR gặp trong 80-90% ung thư đầu cổ, làm gia tăng tính xâm lấn của tế bào ung thư, tăng kháng thuốc hóa trị và giảm sống còn.
Một số hoạt chất khác có khả năng ngừa ung thư vùng đầu cổ chứa nhiều trong nghệ, quả mâm xôi đen, quả lựu…
Chất ức chế Bowman-Birkman
Vào thập niên 1940, Bowman phát hiện ra chất ức chế serine protease, chiết xuất từ đậu nành. Sau đó Birk đã tinh chất hóa và đặt tên là chất ức chế Bowman-Birkman.
Một số nghiên cứu nhận thấy những vùng ở Nhật Bản có sử dụng nhiều đậu nành thì xuất độ ung thư như vú, đại tràng và tiền liệt tuyến thấp. Chất này hiện nay được tinh chất và cô đặc từ đậu nành để sử dụng như là tác nhân chống sinh ung và ngăn ngừa ung thư.