Khách sạn The World's Fairs là nơi nếu bạn mở một cánh cửa, nó có thể dẫn bạn đến ngõ cụt khiến bạn “một đi không trở lại”. Chỉ có một người biết được cách thoát ra khỏi cơn ác mộng đó: ông chủ khách sạn.
H.H.Holmes tên thật là Herman Webster Mudgett, sinh ngày 16/5/1861 ở Gilmanton, Wisconsin, New Hampshire. Ngay từ nhỏ, Herman đã bộc lộ niềm yêu thích “phẫu thuật” các con vật nhỏ.
Lớn lên theo học một trường y khoa nhưng Herman sớm bị đuổi học vì lừa bảo hiểm và ăn cắp xác chết để làm thí nghiệm. Sau đó, Herman đến Chicago học và trở thành một dược sĩ.
Với vẻ ngoài thanh lịch, quyến rũ hắn nhanh chóng trở nên giàu có và được nhiều người biết đến.
Năm 1887, Holmes dùng số tiền mình có được mua một lô đất và xây dựng lên thành khách sạn đồ sộ với hơn 100 phòng và 3 tầng, được xem là khách sạn tráng lệ nhất thời bấy giờ.
Công trình khách sạn này được xây dựng lên trong sự vui mừng và chào đón của người dân thành phố Chicago nhưng không ai ngờ rằng đây lại tấm bình phong che chắn cho “thú vui” giết người của một tay chủ bệnh hoạn.
H.H.Holmes tên thật là Herman Webster Mudgett.
Tầng 1 là các cửa hàng, tầng 3 dành cho phòng ngủ, còn tầng 2 và tầng hầm chính là nơi che giấu bí mật kinh hoàng mà chỉ có H.H.Holmes mới biết.
Holmes thật sự rất thông minh và tinh vi khi luôn thay đổi cấu trúc của khách sạn, mỗi căn phòng từng chút một. Hắn luôn thay đổi nhân viên cũng như nhà thầu xây dựng, vì vậy không một ai có thể nghi ngờ về mục đích thực sự của Holmes.
Khách sạn của Holmes được thiết kế rất đặc biệt. Holmes dùng các tầng trên làm nơi lưu trú cho riêng mình, chứa nhiều phòng nhỏ tiện cho việc tra tấn và giết hại nạn nhân.
Một vài phòng nghỉ có lỗ hổng trên trần dùng để phun thuốc độc vào phòng và được cách âm để không ai có thể nghe thấy bên trong đang xảy ra chuyện gì.
Số khác được lắp đặt hệ thống nhiệt, có khả năng biến căn phòng thành một lò nướng khổng lồ, nhanh chóng nướng chín những khách hàng tội nghiệp đang say ngủ bên trong.
Vài phòng chứa máng trượt dùng để di chuyển xác chết xuống tầng, nơi có lò thiêu, hố vôi và bồn tắm axit dùng để tiêu hủy xác.
Khách sạn của Holmes được thiết kế rất đặc biệt.
Một số căn phòng có thể thông với phòng khác nhờ những vách ngăn được bí mật ẩn giấu trong các bức tường. Có những phòng có máng lớn chạy thẳng xuống tầng hầm, đó không phải máng dùng để giặt đồ mà thực chất để đưa xác chết đến thẳng tầng hầm nơi Holmes mổ xẻ làm thí nghiệm.
Tất cả các cửa ra vào đều được kết nối với một hệ thống báo động rất phức tạp. Bất cứ khi nào có ai đó bước vào hành lang hoặc xuống cầu thang, tiếng còi sẽ vang lên trong phòng ngủ của Holmes.
Dưới tầng hầm nơi phòng ngủ của Holmes là những chiếc xương rải rác khắp nơi, đa số là của động vật và trong đó cũng có cả... xương người.
Chiếc bàn mổ dính đầy máu được hắn sử dụng để mổ xẻ nạn nhân cho thú vui bệnh hoạn của mình. Gần đó là thiết bị hỏa táng thi thể, các dụng cụ tra tấn và thùng axit để phân rã xác chết.
Sau khi thả nạn nhân xuống qua máng xối, hắn ta sẽ mổ xẻ và bán các bộ phận hoặc xương cốt cho những cơ sở y tế hoặc ở chợ đen.
Holmes không có tiêu chí chọn nạn nhân nhất định. Nạn nhân của hắn là người già, trẻ em, phụ nữ, hoặc đơn giản chỉ là khách hàng bị khách sạn tráng lệ kia thu hút mà tự bước chân vào chỗ chết.
Holmes quyến rũ những người phụ nữ xuất thân từ gia đình danh giá và một số người trong số họ không còn được trở về cùng gia đình nữa.
Những xác người dưới tầng hầm giải phẫu của Holmes.
Hắn dụ vài người phụ nữ giàu có cưới mình và trước khi giết chết họ, hắn bắt họ viết di chúc để mình thừa hưởng toàn bộ tài sản.
Dưới tầng hầm nơi phòng ngủ của Holmes là những chiếc xương rải rác khắp nơi, đa số là của động vật và trong đó cũng có cả... xương người.
Chiếc bàn mổ dính đầy máu được hắn sử dụng để mổ xẻ nạn nhân cho thú vui bệnh hoạn của mình. Gần đó là thiết bị hỏa táng thi thể, các dụng cụ tra tấn và thùng axit để phân rã xác chết.
Sau khi thả nạn nhân xuống qua máng xối, hắn ta sẽ mổ xẻ và bán các bộ phận hoặc xương cốt cho những cơ sở y tế hoặc ở chợ đen.
Càng ngày, Holmes càng giết nhiều người và chiếm đoạt nhiều tài sản hơn để duy trì cuộc sống bí ẩn và giải quyết những khoản nợ lớn của mình.
Tuy nhiên, trong một lần trò chuyện với tên cướp tàu có tên là Marion Hedgepeth, Holmes đã vô tình tiết lộ rằng mình “đang có âm mưu gian lận”.
Khi còn bé, hắn đã bộc lộ niềm yêu thích “phẫu thuật” các con vật nhỏ.
Marion Hedgepeth đã tố giác Holmes và tên sát nhân bị bắt khi tham gia vào vụ gian lận tiền bảo hiểm quy mô lớn tại Boston vào 17/11/1894.
Khi cảnh sát khám xét khách sạn The World's Fairs để tìm thêm bằng chứng thì khám phá ra mọi chuyện sát nhân của hắn ta.
Khi khám nghiệm khách sạn, cảnh sát đã phát hiện một đường hầm bí mật thông xuống tầng hầm bí ẩn có một hố vôi sống và một chiếc bàn đầy vết máu khô.
Khách sạn có nhiều cánh cửa đặc biệt chỉ có thể mở được từ bên ngoài và những chiếc két sắt dùng để chứa người. Rải rác quanh tầng 4 của khách sạn, cảnh sát cũng tìm thấy áo quần, xương và tóc của các nạn nhân.
Hắn khai với cảnh sát đã giết 27 người nhưng cảnh sát nghĩ rằng con số có thể hơn thế. Số lượng nạn nhân không thể chứng thực bởi vì tầng hầm khách sạn của Holmes được trang bị các thùng axit để phân hủy bộ phận cơ thể còn sót và lò hỏa táng để đốt xác.
Thiết kế khách sạn của Holmes.
Theo ghi nhận mất tích, người ta nghĩ nạn nhân xấu số của Holmes có thể lên tới con số 200. Hắn nói với mọi người khi nhìn vào trong gương hắn chỉ thấy khuôn mặt và hình dạng của quỷ, không thấy bản thân mình.
H.H.Holmes bị kết tội và xử tử hình bằng hình thức treo cổ vào 7/5/1896 tại Philadelphia, Pennsylvania. Sau 20 phút giãy giụa trong đau đớn, tên sát nhân chấm dứt cuộc đời "ma quỷ" của mình.
Không lâu sau đó, những người tham gia vào vụ án của Holmes gặp nhiều việc vô cùng xui xẻo. Người cai ngục tại nhà tù giam cầm Holmes bị giết chết. Văn phòng của luật sư thụ lý vụ án nổi tiếng bị cháy. Thứ duy nhất còn sót lại sau trận hỏa hoạn là một bức ảnh của Holmes.
Nổi tiếng nhất là, Patrick Quinlan - người trông coi khách sạn sau khi Holmes chết, cũng như biết nhiều nhất về tòa nhà ma ám - đã tự tử vào năm 1914. Trước khi chết ông chỉ để lại một câu, rằng: "Tôi không thể ngủ".