Binh lính Trung Quốc thời cổ đại ăn gì khi đánh trận?

  •  
  • 5.726

Theo các trang Quora War.163, thực phẩm của binh lính thời cổ đại ở Trung Quốc chủ yếu là các loại ngũ cốc. Phổ biến nhất là kê (thời Tiền Tần và Hán), vì nó có thời hạn sử dụng lâu hơn nhiều nếu so với gạo hoặc lúa mì.

Ngoài ra, nếu có một vụ mùa ổn định ở miền bắc Trung Quốc, nơi hầu hết các cuộc giao tranh đã diễn ra giữa Trung Quốc và những kẻ xâm lược du mục, những người lính sẽ ninh kê thành cháo, sau đó thêm cá muối, tương lên men hoặc rau muối, và bất kỳ loại rau nào họ nhặt được trên đường đi. Hồi đó, muối là một mặt hàng quý giá và khẩu phần của binh lính sẽ bao gồm cả ngũ cốc và muối.

Thực phẩm phải được vận chuyển cùng với binh lính hoặc trước đó. Các thị trấn biên giới thường có dự trữ ngũ cốc để cắt giảm hậu cần vận chuyển. Ăn cắp ngũ cốc dự trữ của quân đội có thể dẫn đến cái chết.

Cháo kê
Cháo kê.

Bánh mì khô là một sự lựa chọn khác (thời Hán và sau này). Chúng chưa được tráng vỏ và khá cứng. Lính cần bẻ chúng ra và ngâm trong trà hoặc canh.

Nhà Minh đã phát minh ra bánh mì cứng nướng với một lỗ ở giữa để dễ mang theo.

Bánh nướng cứng
Bánh nướng – loại bánh quen thuộc với quân lính nhà Minh. (Nguồn: Zhidao.baidu).

Do hạn sử dụng của rau và thịt ngắn nên các binh sĩ cổ đại hầu như không được ăn khi hành quân. Loại thực phẩm này là thứ xa xỉ của những người lính bình thường và hầu như chỉ phục vụ cho các binh lính cấp cao. Đối với binh lính ở đồng bằng, thịt là thứ xa xỉ nhưng đối với dân du mục đây lại là loại thực phẩm thường xuyên xuất hiện trong khẩu phần ăn của họ.

Khi binh lính từ miền nam Trung Quốc trở thành một phần của quân đội, gạo đã trở thành một phần của chế độ ăn uống, vì miền nam Trung Quốc không quen ăn hạt kê.

Quân Minh có một loại gạo ăn liền làm từ gạo nấu chín và sấy khô, chỉ cần thêm nước nóng vào là có thể ăn.

Trong hầu hết các trường hợp, thịt rất hiếm. Bò được sử dụng trong nông nghiệp, và ngựa là một phần của kỵ binh. Binh lính của họ bị cấm lấy động vật từ các trang trại địa phương, đặc biệt là bò. Đó là một tội ác bị trừng phạt bằng cái chết. Tùy thuộc vào quân đội đến từ vùng nào, cá khô hoặc thịt khô có thể là một phần của chế độ ăn. Chỉ có các tướng mới mong có thịt trong bữa ăn.

Trong hoàn cảnh tồi tệ, người ta có thể ăn thịt người. Các lực lượng tấn công đã bổ sung nguồn lương thực của họ bằng thịt kẻ thù đã bị giết.

Hoàng đế Trung Quốc các đời không bao giờ thiếu lính đói khát. Trung Quốc có nhiều câu cách ngôn về tầm quan trọng của lương thảo. Bất cứ khi nào và ở đâu, những người lính chỉ cần được ăn và ngủ đầy đủ là có thể mang trang bị nặng và hành quân chiến đấu. Mặc dù Trung Quốc là một quốc gia lớn về ẩm thực, nhưng các món ăn khác nhau đều là sáng chế của các gia đình giàu có và quý tộc, và những người lính bình thường không thể thưởng thức chúng. Thức ăn trong doanh trại rất đơn điệu.

Tổ tiên xa của người Hán ở Trung Quốc là những người bán du mục, đánh cá và săn bắn, nhưng từ khi họ vào vùng đồng bằng trung tâm từ Thanh Hải, Cam Túc, dân số tăng dần và nông nghiệp sơ khai bắt đầu phát triển.

Săn bắn trên thực địa vào thời nhà Thương là một nguồn cung cấp khẩu phần ăn chính cho quân đội. Quy mô của các cuộc săn bắn trên thực địa vào thời nhà Thương rất lớn. Hàng ngàn người đã được cử đến cùng một lúc để  săn hàng trăm động vật hoang dã. Có sách ghi lại một cuộc đi săn trên thực địa thu được 451 con hươu. Vào thời nhà Chu, quy mô săn bắn trên thực địa thậm chí còn lớn hơn. Chính vì vậy mà các triều đại nhà Thương, nhà Chu đã có thể liên tục mở rộng lãnh thổ và từng bước mở rộng đến Thiểm Tây, Hà Nam, Sơn Tây, Hà Bắc, Sơn Đông, An Huy và nhiều tỉnh khác.

Sau cuộc sống nửa nông nghiệp và nửa chăn nuôi ở các triều đại Hạ, Thương và Chu, nhà Hán chính thức trở thành một quốc gia nông nghiệp sau thời Chiến Quốc. Ngũ cốc nguyên hạt và một số loại rau chất lượng thấp đã trở thành chế độ ăn uống phổ biến của người dân và quân đội.

Phương pháp đầu tiên của việc nấu nướng trong quân đội là nấu cháo. Trước thời nhà Tống, hầu hết dụng cụ nấu nướng là đồ gốm, nồi sắt rất hiếm. Gốm tốt nhất để nấu cháo, không dùng để nấu thứ khác. Ở các triều đại Hạ, Thương và Chu, cháo kê được nấu thay cho cháo rau. Trong cháo nhất thiết phải thêm các loại rau rừng, quả dại, các loại đậu, thậm chí cả với thịt. Đoàn quân vừa đến bữa thì bắc nồi sắt nấu cháo. Chỉ là cháo lúc đó rất đặc.

Những cuộc chiến tranh kéo dài, nhiều khả năng hậu phương sẽ không thể tiếp tế được lương thực và binh lính sẽ chết đói. Nguồn cung cho quân lính không đủ, chỉ có thể lên kế hoạch cướp bóc của kẻ thù, hoặc thậm chí cướp bóc thường dân. Điều này cũng phản ánh sự tàn khốc và đẫm máu của các cuộc chiến tranh.

Cập nhật: 22/04/2021 Theo Tiền Phong/Pháp luật và bạn đọc
  • 5.726