Trong số hơn 400 loài cá mập sinh sống khắp các vùng biển trên thế giới, các nhà khoa học đã xác định được 5 loài cá mập chuyên định cư trong các vùng nước ngọt trên các con sông và hồ.
Cho tới nay, những công trình nghiên cứu về loài cá mập sông trên thế giới là rất hạn chế. Giới khoa học xác định phần lớn cá mập sông đều thuộc 5 loài cá mập họ Glyphis. Ngoài ra, khả năng còn nhiều loài cá mập khác sinh sống trong vùng nước ngọt chưa được các nhà nghiên cứu phát hiện.
Cá mập sông sinh sống trong các vùng nước ngọt tại Ấn Độ, Đông Nam Á và nhiều khu vực thuộc Australia. Tuy nhiên, hiếm khi con người được tận mắt nhìn thấy chúng.
Mặc dù thuộc họ nhà cá mập song cá mập sông lại dường như vô hại với con người. Ngoài ra, chính hoạt động đánh bắt cá, nạn ô nhiễm môi trường và sự phát triển nhanh chóng của con người đang đe dọa nghiêm trọng tới cuộc sống của 5 loài cá mập thuộc họ Glyphis.
Thông thường, cá mập sông mang hình dáng cơ thể ngắn, mồm rộng và mắt nhỏ. Chúng có thể phát triển cơ thể dài tới 3m. Ngoài ra, cơ thể của cá mập sông thường phát triển phần vây rộng và trông giống loài cá hơn là cá mập.
Cá mập răng dáo hay Glyphis glyphis là một trong những loài có khả năng sinh sống trên các con sông trồng cây đước và lực nước chảy khá xiết thuộc khu vực phía bắc Australia và New Guinea.
Chúng phát triển phần vây lớn trên lưng. Răng mọc sâu dưới hàm, khá nhỏ và trông giống như chiếc dáo nên chúng mới có tên là "Cá mập răng giáo".
Theo các nhà khoa học, cá mập răng dáo thường di chuyển khi thủy triều thay đổi nhằm tiết kiệm năng lượng cho cơ thể. Thức ăn hàng ngày của chúng là các loài cá và giáp xác. Giống như nhiều loài cá mập, chúng cũng sinh con thay vì đẻ trứng.
Hiệp hội quốc tế về Bảo tồn Thiên nhiên (IUCN) đã liệt cá mập răng dáo vào danh sách động vật có nguy cơ tuyệt chủng. Hiện tại, trên toàn thế giới chỉ còn khoảng 2.500 con cá mập răng dáo và cuộc sống của chúng đang bị đe dọa do mất môi trường sống và đánh bắt cá bừa bãi của con người.
Họ hàng của loài cá mập răng giáo bao gồm cá mập sông phương bắc hay còn gọi là cá mập sông New Guinea (tên khoa học: Glyphis garricki) và cá mập sông Irrawaddy (tên khoa học: Glyphis siamensis) - được phát hiện trong một chuyến nghiên cứu sông Irrawaddy tại Myanmar vào thế kỷ 19.
Cá mập sông Borneo (tên khoa học: Glyphis fowlerae) là một trong những loài cá mập sông nổi tiếng nhất được phát hiện vào thế kỷ 19.
Theo chuyên gia nghiên cứu cá mập của IUCN - Leonard Compagno, các tài liệu khoa học đề cập tới sự phân bố khu vực sinh sống và đặc điểm sinh học của cá mập sông trên khắp thế giới là rất hạn chế. Chúng giống như những "bóng ma" hiếm khi xuất hiện và phân bố rải rác. Do đó, việc phát hiện sự có mặt của cá mập sông được xem là một điều kỳ lạ.
Một trong những loài cá mập sông quý hiếm và đang bị đe dọa tuyệt chủng là cá mập sông Hằng (tên khoa học: Glyphis gangeticus), chuyên sinh sống trong khu vực nước ngọt tại phía đông và đông bắc Ấn Độ.
Cá mập sông Hằng thường bị nhầm lẫn vì mang hình dáng và cấu tạo gần giống với cá mập bò (Carcharhinus leucas). Chúng được gọi với nhiều cái tên như cá mập sông, cá mập Zambezi hay cá mập Nicaragua.
Trái với sự nguy hiểm của cá mập bò, cá mập sông Hằng lại xuất hiện khá ít và không gây nguy hiển cho con người.
Cá mập bò thường sinh sống trong các vùng nước nông và ấm áp dọc khu vực bờ biển và sông trên khắp thế giới. Chúng thường bơi rất xa và nổi tiếng là những kẻ săn mồi hung bạo và cơ hội.
Đôi khi, con người có thể bắt gặp hình ảnh cá mập bò cách xa vùng đất liền của bang Indiana và sông Ohio (Mỹ). Chúng được xếp đứng đầu trong danh sách các vụ tấn công con người ở khu vực gần bờ biển.
Điều đáng nói là cá mập bò tiến hóa khả năng chịu được cuộc sống trong vùng nước ngọt nhờ phát triển kỹ năng hạn chế bài trừ muối trong máu qua tuyến trực tràng. Phần mang và thận cũng giúp cá mập bò kiểm soát lượng muối hấp thu và thải ra bên ngoài.
Thông thường cá mập bò đi săn một mình nhưng trong một số trường hợp chúng đi theo cặp nhằm săn được nhiều thức ăn hơn. Chúng đánh dấu lãnh thổ cho riêng mình và sẵn sàng tấn công những kẻ xâm nhập trái phép.