1. Tuổi trẻ và học vấn
Copernic sinh tại Torun, Pologne trong một gia đình thương gia và công chức. Cậu của Copernic là giám mục Lukas Watzelrode, chăm sóc học vấn cho cháu thật vững trong những trường đại học tốt nhất.
Nicolas vào trường đại học Cracovie năm 1491, học về nghệ thuật tự do trong 4 năm nhưng không có văn bằng gì cả. Sau đó ông đi Ý để học Y khoa và Luật khoa như những người nước Pologne thời đó. Trước khi ra đi, cậu ông cho ông chức linh mục phụ tá (chanoine) tại Frauenburg, ngày nay là Frombork, một chức vụ trách nhiệm về tài chánh nhưng không có nhiệm vụ tín ngưỡng.
Tháng giêng năm 1497, Copernic bắt đầu học Luật Giáo hội (droit canon) tại đại học Bologne và ở nhà một giáo sư Toán Domenico Maria Novara (1454-1504). Giáo sư là một trong những người đầu tiên điều chỉnh cho chính xác khoa địc lý của Ptolémée và đã khuyến khích ông rất nhiều trong ngành Ðịa lý và Thiên văn. Cả hai cùng quan sát nguyệt thực, sao Aldébaran ngày 9/03/1497 tại Bologne.
Năm 1500, Copernic tổ chức Hội nghị về Thiên văn tại Rome
Năm sau ông được phép học Y khoa tại Padoue, (trường đại học mà gần một trăm năm sau Galillée học)
Năm 1503 ông đậu tiến sĩ Luật, và trở về Pologne để hoàn thành chức vụ hành chính của ông (chưa học xong trường Y).
2. Các tác phẩm
Từ năm 1503 đến 1510, Copernic sống trong lâu đài Giám mục của cậu Lidzbark Warminski ông, tham gia hành chính của địa phận.
Ông in quyển sách đầu tiên, dịch từ tiếng Latin quyển sách về đạo đức của một tác giả xứ Bizance thuộc thế kỷ thứ VII, Theophylactus de Simocatta.
Trong những năm từ 1507 đến 1515, ông hoàn thành bài về Thiên văn: De Hypothesibus Motuum Coelestium a se Constitutis Commentariolus được biết dưới tựa đề Commentariolus mà mãi đến thế kỷ thứ XIX mới được in. Trong công trình này, ông đưa ra những nguyên tắc của thuyết Thiên văn mới của ông: thuyết Mặt Trời ở giữa (Héliocentrique).
Sau khi ông về lại Frauenburg năm 1512, ông tham dự vào công việc sửa đổi lịch (1515)
1517: Viết một bài về tiền tệ và bắt đầu tác phẩm chính của ông: De Revolutionibus Orbium Coelestium (chuyển động quay của những thiên thể). Công trình này ông hoàn tất từ năm 1530 nhưng mãi đến năm 1543 mới được in tại Nuremberg. Copernic chỉ nhận được vài bản vài giờ trước khi ông mất (24/05/1543). Ông gởi tặng một bản cho Giáo hoàng Paul III, ông giới thiệu hệ thống của ông là một lý thuyết thuần túy để tránh sự trừng phạt của giáo hội (vindicte)
3. Hệ thống Copernic và ảnh hưởng
Hệ thống Copernic dựa trên sự quả quyết rằng trái đất quay quanh chính nó 1 vòng trong một ngày và quay quanh mặt trời một vòng trong một năm.
Ngoài ra, những hành tinh khác cũng ở xung quanh mặt trời. Như vậy, trái đất có sự tiến động trên trục của nó khi nó quay (cũng giống như một con vụ vừa quay xung quanh nó, vừa quay vòng)
Hệ thống Copernic còn giữ lại một số lý thuyết xưa như những khối cầu thật chắc mang những hành tinh và mang những ngôi sao đứng yên.
Thuyết của Copernic có ưu điểm hơn của Ptolémée là giải thích được sự chuyển động hàng ngày của mặt trời và sao (do chuyển động của trái đất xung quanh chính nó) và chuyển động của mặt trời hàng năm (do sự chuyển động của trái đất quanh mặt trời). Ông giải thích được chuyển động bề ngoài có vẻ ngược của Mars, Jupiter và Saturne và Mercure và Vénus giữ nguyên độ xa đối với mặt trời
Ngoài ra thuyết Copernic cho một bảng thứ tự mới của các hành tinh tùy chu kỳ quay vòng của chúng
Hệ thống Copernic khác của Ptolémée là bán kính quỹ đạo của hành tinh càng lớn thì càng cần nhiều thời gian hơn để hành tinh đó quay một vòng quanh mặt trời
Nhưng khái niệm về một trái đất di chuyển khó được những độc giả của thế kỷ XVI chấp nhận để hiểu được lỳ thuyết Copernic. Có vài thuyết của ông được chấp thuận nhưng "trung tâm mặt trời " bị bác bỏ hay không biết.
Từ năm 1543 đến 1600 ông chỉ có mười người theo ông. Phần đông họ làm việc bên ngoài trường đại học, trong những lớp học hoàng gia. Những người nổi tiếng nhất là Galilée, Johannes Kepler. Những người này có những lý lẽ đặc biệt khác để ủng hộ hệ thống Copernic.
Năm 1588, nhà Thiên văn học Danemark, Tycho Brahé, nghiên cứu một vị trí trung gian đặc biệt mà trái đất như có vẻ đứng yên và mọi hành tinh khác quay chung quanh nó.
Năm 1633, mặc dù Galilée bị buộc tội trước tòa án La Mã nhưng có vài triết gia thời bấy giờ vẫn chấp nhận (bên trong lòng) lý thuyết Copernic.
Khoảng cuối thế kỷ XVII khi ngành Cơ học thiên văn tiến bộ nhờ Isaac Newton, phần đông những bác học Anh, Pháp, Hà Lan, Danemark theo Copernic, còn những nước khác thì chống Copernic đến ngót một thế kỷ.
-------------------------------------
Đón đọc tiếp: "Nicolas Copernic - Câu hỏi từ trong vườn nho"
Đón đọc tiếp: "Nicolas Copernic - Sự hủy diệt tác phẩm vĩ đại"