Bong gân cổ tay xảy ra khi các dây chằng ở cổ tay giãn quá mức và bị rách (một phần hoặc toàn bộ). Gãy xương cổ tay xảy ra khi một trong các xương cổ tay bị gãy. Đôi khi, rất khó để chúng ta có thể phân biệt được giữa bong gân cổ tay và gãy xương cổ tay bởi cả hai chấn thương này đều có các triệu chứng như nhau và đều do các chấn thương tương tự gây ra – chống tay khi ngã hoặc cổ tay bị va đập trực tiếp.
Trên thực tế, trường hợp gãy xương cổ tay cũng bao gồm bong gân cổ tay. Việc xác định chính xác hai trường hợp chấn thương này đòi hỏi sự chẩn đoán y khoa (bằng X-quang), tuy nhiên bạn cũng có thể phân biệt bong gân và gãy xương cổ tay ngay tại nhà trước khi đến bệnh viện hoặc cơ sở y tế gần nhất. Mời các bạn tham khảo cách phân biệt giữa bong gân cổ tay và gãy xương cổ tay trong bài viết này nhé!
Bong gân cổ tay có thể xảy ra với nhiều mức độ khác nhau, tùy thuộc vào độ giãn hoặc rách một hoặc nhiều dây chằng. Trong trường hợp bong gân cổ tay nhẹ (mức độ 1), các dây chằng bị giãn nhưng không rách đáng kể; trường hợp trung bình (mức độ 2) chỉ tình trạng rách dây chằng khá nhiều (lên đến 50% số sợi) và có thể mất một số chức năng; trường hợp bong gân nặng (mức độ 3) chỉ tình trạng rách dây chằng nặng hơn hoặc đứt hoàn toàn.
Bạn vẫn có thể cử động cổ tay tương đối bình thường (mặc dù đau) nếu bị bong gân mức độ 1 và mức độ 2. Trường hợp bong gân mức độ 3 thường dẫn đến tình trạng không ổn định trong vận động vì các dây chằng gắn với xương cổ tay bị đứt hoàn toàn.
Bong gân cổ tay thường khác nhau về mức độ và kiểu đau. Bong gân cổ tay mức độ 1 gây đau nhẹ, cơn đau thường được mô tả là nhức và có thể đau nhói khi cử động. Bong gân mức độ 2 có mức đau trung bình đến dữ dội, tùy vào tình trạng rách dây chằng; mức độ đau cao hơn độ 1 và đôi khi đau nhói vì sưng nhiều hơn. Tuy nhiên, ban đầu bong gân mức độ 3 thường ít gây đau hơn mức độ 2 vì dây chằng đã bị đứt hoàn toàn và không kích thích nhiều dây thần kinh xung quanh. Bong gân mức độ 3 sẽ bắt đầu đau nhói khi tình trạng sưng gia tăng.
Trường hợp bong gân ở mọi cấp độ đều đáp ứng tốt với liệu pháp chườm đá hoặc chườm lạnh nhờ tác dụng giảm sưng và làm tê các dây thần kinh xung quanh vốn gây đau. Liệu pháp chườm đá đặc biệt quan trọng trong các trường hợp bong gân cổ tay cấp độ 2 và 3 do tình trạng sưng tăng lên xung quanh vị trí chấn thương. Liệu pháp chườm đá lên cổ tay bị bong gân sau khi chấn thương khoảng 1 đến 2 tiếng một lần, mỗi lần khoảng 10-15 phút rất hiệu quả sau khoảng 1 ngày và giúp giảm đau đáng kể, nhờ đó việc cử động cũng dễ dàng hơn.
Lưu ý tình trạng sưng không giống bầm tím. Hiện tượng bầm tím là do tình trạng máu từ các động mạch hoặc tĩnh mạch nhỏ tràn vào các mô. Bong gân mức độ 1 thường không gây bầm tím, trừ khi cú va đập mạnh làm vỡ các mạch máu dưới da. Bong gân mức độ 2 thường kèm sưng, nhưng có thể không bầm tím nhiều – phụ thuộc vào việc chấn thương xảy ra như thế nào. Bong gân mức độ 3 gây sưng nhiều và thường bầm tím đáng kể vì chấn thương làm đứt dây chằng đủ nghiêm trọng để làm vỡ hoặc tổn thương cách mạch máu xung quanh.
Về cơ bản, mọi trường hợp bong gân cổ tay mức độ 1 và một số trường hợp bong gân mức độ 2 sẽ cải thiện đáng kể sau vài ngày, nhất là khi vết thương được giữ bất động và chườm lạnh. Nếu cổ tay của bạn có vẻ khá hơn, không sưng rõ rệt và có thể cử động mà không thấy đau thì không cần can thiệp y khoa. Trường hợp bong gân nặng hơn (mức độ 2) nhưng có cảm giác đỡ hơn nhiều sau vài ngày (dù vẫn còn sưng và đau), bạn cần chờ thêm một thời gian nữa để hồi phục. Tuy nhiên, trường hợp vết thương không cải thiện nhiều hoặc xấu đi sau vài ngày cần phải được kiểm tra y khoa càng sớm càng tốt.
Các kiểu tai nạn hoặc chấn thương gây bong gân cổ tay cũng có thể gây gãy xương cổ tay. Nói chung, xương càng to và chắc thì khả năng bị gãy do chấn thương càng ít – thay vào đó là tình trạng giãn và rách dây chằng. Tuy nhiên, nếu xương bị gãy thường có hiện tượng lệch hoặc vẹo. Tám chiếc xương cổ tay khá nhỏ, do đó hiện tượng lệch và vẹo cổ tay có thể khó (hoặc không thể) nhận ra, nhất là trong trường hợp nứt xương, còn trường hợp gãy xương nặng hơn sẽ dễ nhận biết hơn.
Mức độ và kiểu đau do gãy xương cổ tay cũng tùy thuộc vào độ nặng nhẹ của chấn thương, nhưng thông thường được mô tả là đau nhói khi cử động và đau nhức khi bất động. Cơn đau do gãy xương cổ tay thường gia tăng khi nắm hoặc siết bàn tay; tình trạng này thường không xảy ra khi bong gân.
Gãy xương cổ tay thường gây nhiều triệu chứng ở bàn tay hơn, chẳng hạn như cứng, tê hoặc không thể cử động ngón tay, do có nhiều khả năng bị chấn thương/tổn thương dây thần kinh. Ngoài ra còn có tiếng kêu răng rắc khi cử động cổ tay gãy; điều này không xảy ra ở trường hợp bong gân cổ tay.
Như đã đề cập, trường hợp bong gân từ nhẹ đến vừa có thể đỡ sau 1-2 ngày nếu được nghỉ ngơi và chườm lạnh, nhưng ở trường hợp gãy xương thì không như vậy. Trường hợp nứt xương có thể là một ngoại lệ, hầu hết các xương bị gãy đều cần nhiều thời gian hơn để bình phục so với bong gân. Như vậy, vài ngày chườm đá và nghỉ ngơi không có tác dụng nhiều để giúp thuyên giảm triệu chứng trong các trường hợp gãy xương. Bạn có thể cảm thấy tình trạng xấu hơn khi cơ thể đã qua cú “sốc” ban đầu khi bị chấn thương.
Các thông tin trên có thể hướng dẫn bạn cách chẩn đoán chấn thương cổ tay là bong gân hay gãy xương, tuy nhiên chỉ có các phương pháp chẩn đoán hình ảnh như chụp X-quang, chụp cộng hưởng từ (MRI) hoặc chụp cắt lớp vi tính (CT scan) mới có thể xác định chính xác trong hầu hết các trường hợp – trừ xương gãy đâm qua da.
Chụp X-quang là phương pháp phổ biến và tiết kiệm nhất để quan sát các xương nhỏ ở cổ tay. Bác sĩ có thể giới thiệu bạn chụp X-quang cổ tay để bác sĩ chuyên khoa X-quang đọc kết quả trước khi tư vấn. X-quang chỉ cho hình ảnh của xương mà không thấy được các mô mềm như dây chằng hoặc gân. Các xương bị gãy rất khó đọc bằng X-quang do kích thước nhỏ và không gian hạn chế, có thể phải mất vài ngày mới thấy rõ trên hình ảnh X-quang. Do đó, để xem thêm các tổn thương dây chằng, bác sĩ sẽ giới thiệu bạn chụp MRI hoặc CT scan.