Nói đến ngựa, ta nghĩ ngay đến khả năng chạy nhanh của nó, việc chạy nhanh của ngựa làm ta liên tưởng tới những âm thanh "ta... ta..." của vó ngựa. Tại sao khi ngựa chạy lại phát ra những âm thanh vang đến như vậy? Thì ra con người đã cho ngựa giày sắt - móng sắt. Tại sao phải đóng móng sắt vào chân ngựa? Điều này bắt đầu từ ngón chân ngựa.
Ngựa ngày nay, ở đầu ngón chân của tứ chi chỉ có một ngón, nếu ví với bàn tay người thì nó tương đương với ngón giữa, những ngón chân khác đã bị thoái hoá cùng với sự diễn tiến của thời gian. Trên ngón chân này có móng giống như móng chân để bảo vệ. Móng ngựa thật ra là miếng da bị sừng hoá rất cứng. Lớp sừng hoá ở phía trước và hai bên rất dày và cứng gọi là vách móng.
Đóng móng sắt trên móng ngựa để móng ngựa không bị bào mòn.
Lớp sừng của một phần phía trước dưới bàn chân ngựa gọi là đế móng. Vách móng và đế móng cùng xương móng ở trong móng tạo thành một khối rắn chắc, trở thành một chỉnh thể để khi ngựa chạy không bị lung lay. Phía dưới móng tức là bộ phận phía dưới của gót chân, lớp sừng hoá mềm mại và có đàn hồi, có thể làm giảm xung lực của mặt đất.
Móng ngựa không hoàn toàn chạm xuống mặt đất, phần chạm đất chỉ giới hạn ở viền móng và vách móng, vì vậy tiết diện tiếp xúc với mặt đất nhỏ giúp ngựa phi nhanh trên đường lớn và những cánh đồng hoang đã khô cằn.
Với sức tải lớn cùng tốc độ chạy nhanh vượt trội, từ lâu loài ngựa đã được sử dụng làm phương tiện di chuyển hay vận tải của con người. Vào thời kỳ đầu khi ngựa vừa được thuần hóa, xuất hiện một thực trạng là với cường độ di chuyển cao, chiếc móng tự nhiên của ngựa bị quá tải và mòn dần đi ảnh hưởng đến khả năng cũng như tốc độ chạy của chúng.
Để giải quyết vấn đề này, người ta đã sáng chế ra những chiếc móng sắt hoạt động như một lớp đệm bảo vệ bộ móng tự nhiên của loài ngựa.
Móng ngựa vừa là lớp da ngắn, cứng bị sừng hoá lại vừa là điểm đỡ của trọng lượng cơ thể, do thường xuyên cọ xát trên mặt đất cứng, cùng với trên móng ngựa xuất hiện những vết mòn, lồi lõm ảnh hưởng tới tốc độ phi và sự thồ vác nặng của ngựa. Về sau con người mới nghĩ ra một biện pháp là đóng móng sắt trên móng ngựa để móng ngựa không bị bào mòn.
Đóng móng sắt cũng không được đóng tuỳ tiện. Trước khi đóng móng sắt phải dùng dao chỉnh lại móng, gọt cho phẳng mép đáy, vách móng, sau đó lựa móng sắt cho vừa nhất sao cho móng chân và móng sắt ôm khít lại với nhau. Cuối cùng dùng đinh đóng vào lỗ đinh của móng sắt. Vị trí đóng đinh là chỗ có sợi dây chắn hình tròn nằm giữa đế móng và viền đế vách móng. Khi đóng đinh móng phải để đinh hướng ra ngoài, xuyên ra vách móng nhưng không được làm tổn thương bộ phận xúc giác của ngựa. Đầu nhọn của đinh lộ ra ngoài vách móng ta phải cắt bằng, đoạn đinh còn lại uốn cong cho dính chặt vào vách móng để cố định móng sắt vào móng chân ngựa.
Sau khi đóng móng sắt cho ngựa vẫn chưa thể coi là xong. Bởi vì lớp sừng hoá của móng ngựa giống như móng tay người, nó không ngừng dài. Nếu ta không kiểm tra, không tu sửa thì móng ngựa sẽ bị biến dạng, móng sắt không phát huy được tác dụng.
Do vậy mỗi năm phải sửa móng sắt cho ngựa vài lần, nếu móng sắt bị mài mòn quá, như thế phải kịp thời thay móng. Chỉ có như vậy mới bảo vệ tốt móng ngựa, phát huy được uy lực chạy ngàn dặm của ngựa.
Lý do ngựa cần đóng móng còn gia súc thì không
Gia súc, mặc dù cũng là động vật thuần hóa và làm việc trên các cánh đồng như ngựa, nhưng chúng không cần phải đóng móng. Lý do chính là do sự khác biệt về cấu trúc sinh lý và môi trường sống của hai loài.
Ngựa là động vật móng guốc lẻ, có một ngón chân phát triển tốt, trong khi gia súc là artiodactyls (động vật guốc chẵn), tức là có hai ngón chân phát triển. Các ngón chân của gia súc giúp chúng phân tán trọng lượng đều hơn khi di chuyển trên đất mềm, phù hợp với công việc trên đồng cỏ và trong nông nghiệp. Đặc điểm này giúp gia súc ít bị mài mòn móng và ít cần đến sự bảo vệ thêm từ móng giả như ngựa.
Ngoài ra, gia súc thường sống và làm việc trên các loại đất mềm, không gây áp lực lớn lên móng chân như các bề mặt cứng mà ngựa thường tiếp xúc. Vì vậy, nguy cơ bị mòn móng hoặc chấn thương móng ở gia súc thấp hơn nhiều so với ngựa.
Móng ngựa có cấu tạo đặc biệt, mỏng và dễ bị mài mòn khi tiếp xúc trực tiếp với các bề mặt cứng.
Ngựa thường được sử dụng để cưỡi, kéo xe và thực hiện các công việc yêu cầu di chuyển nhanh và liên tục. Điều này đòi hỏi móng ngựa phải được bảo vệ tốt hơn. Ngược lại, gia súc chủ yếu được sử dụng trong nông nghiệp, như cày ruộng và kéo xe chậm rãi. Hơn nữa, gia súc thích hợp sống trong môi trường ôn hòa, nơi đất mềm và ít gây tổn thương cho móng.
Một điểm khác biệt nữa là ngựa là loài động vật chịu nhiệt, có khả năng thích nghi với môi trường khô cằn, trong khi gia súc thích hợp sống trong môi trường ẩm ướt và mát mẻ hơn. Đặc tính này giúp ngựa có thể làm việc hiệu quả trên các bề mặt cứng, trong khi gia súc phát triển tốt hơn trong các điều kiện đất mềm.
Ngựa được sử dụng để cưỡi, kéo xe, tham gia các hoạt động thể thao... đòi hỏi chúng phải di chuyển nhiều trên các địa hình khác nhau, từ đường cứng đến đường đất mềm. Việc đóng móng ngựa giúp bảo vệ móng, giảm ma sát, tăng độ bám và giúp ngựa di chuyển linh hoạt hơn. Gia súc thường được nuôi nhốt hoặc chỉ di chuyển trong phạm vi hạn chế, trên các bề mặt mềm như cỏ. Do đó, móng của chúng ít bị mài mòn và không cần thiết phải đóng móng.
Việc đóng móng ngựa và không đóng móng cho gia súc là kết quả của sự khác biệt trong cấu trúc sinh lý, môi trường sống và chức năng công việc của hai loài. Ngựa, với vai trò đặc thù của mình, cần sự bảo vệ thêm cho móng để đảm bảo khả năng làm việc hiệu quả và duy trì sức khỏe. Ngược lại, gia súc với cấu trúc móng phù hợp với môi trường đất mềm và công việc nặng nhọc nhưng không cần di chuyển nhanh, có thể hoạt động tốt mà không cần đến việc đóng móng. Sự khác biệt này không chỉ phản ánh những đặc tính sinh học của mỗi loài mà còn là kết quả của hàng ngàn năm thuần hóa và sử dụng trong nông nghiệp và cuộc sống của con người.