Cá sói (wolffish) sở hữu vẻ ngoài và khuôn mặt như những loài vật bước ra từ các bộ phim kinh dị, tuy nhiên điều mà ít ai ngờ tới lại là chúng vô cùng thân thiện với con người.
Điểm chung duy nhất của cá sói Đại Tây Dương (Anarhichas lupus) với loài chó sói là nó có hàm răng sắc nhọn và bộ hàm khỏe để giúp nó kiếm ăn. Trên thực tế, hàm răng của nó nổi bật đến mức một số còn thò ra khỏi miệng, khiến nó có vẻ ngoài vừa đáng sợ vừa hài hước - ít nhất là theo tiêu chuẩn của con người.
Trên thực tế, loài cá này sử dựng hàm răng đáng sợ của mình để đào xuống các lớp trầm tích dưới đáy đại dương để kiếm ăn và phá vỡ lớp vỏ cứng của các loài cua, nhím biển, trai và các loài có vỏ cứng khác. Ngoài hàm răng có thương hiệu nhận diện đặc biệt thì loài cá sói này còn sở hữu một thân hình khá dài và gần giống với loài lươn.
Được tìm thấy cả ở bờ biển phía tây và phía đông của Đại Tây Dương, loài cá này là sinh vật sống ở dưới đáy đại dương có nền cứng ở độ sâu khoảng 600 mét và thường xuyên được nhìn thấy trong các ngóc ngách và hang động nhỏ. Cơ thể của loài cá này còn có thể tạo ra chất chống đông để giữ cho máu của nó chuyển động trôi chảy, bởi chúng thường sống tại những nơi có nhiệt độ nước từ -1 đến 11 độ C.
Và đó không phải là điều duy nhất khiến sinh vật này trở nên đặc biệt!
Trong khi hầu hết các loài cá đều "đẻ trứng" (với cá cái thả hàng ngàn trứng vào nước và cá đực cạnh tranh để thụ tinh bên ngoài), thì ở loài này, cá cái sẽ bắt cặp và thụ tinh bên trong cơ thể với cá đực, điều này có nghĩa là chúng giao phối giống như cách động vật có vú thường làm.
Mặc dù có vẻ ngoài đáng sợ, những con cá này rất tình cảm đối với con người!
Cá sói là một loài cá biển thuộc họ cá sói Anarhichadidae, có nguồn gốc từ Bắc Đại Tây Dương. Số lượng cá sói Đại Tây Dương ở các vùng biển của Hoa Kỳ đang nhanh chóng bị cạn kiệt, rất có thể là do đánh bắt quá mức và đánh bắt quá mức, và nó hiện đang là loài cần được quan tâm, theo Dịch vụ Thủy sản Biển Quốc gia của Cục Quản lý Khí quyển và Đại dương Quốc gia Hoa Kỳ. Ngoài vẻ ngoài độc đáo, cá sói còn được biết đến bởi việc sở hữu chất chống đông tự nhiên mà chúng tạo ra để giữ cho máu của chúng di chuyển linh hoạt trong môi trường sống rất lạnh.
Cá sói Đại Tây Dương lần đầu tiên được mô tả chính thức vào năm 1758 trong ấn bản thứ 10 của cuốn sách Systema Naturae bởi Carl Linnaeus. Khi Linnaeus mô tả nó, ông đã phân loại nó vào chi Anarhichas nên ngày nay A. lupus là loài thuộc chi đó. Tên cụ thể lupus có nghĩa là "sói", một trong những tên phổ biến của những loài cá này là "cá sói biển", cái tên này được đặt vì những chiếc răng cửa giống như răng nanh.
Cá sói Đại Tây Dương vẫn giữ được hình dáng cơ thể và các đặc điểm chung bên ngoài giống với tổ tiên thời tiền sử của loài này. Mẫu vật lớn nhất được ghi nhận có chiều dài 1,5 mét và nặng gần 18kg. Cơ thể của nó dài, hình trụ phụ ở phía trước và dẹp dần ở phần đuôi. Cá sói Đại Tây Dương có nhiều màu sắc khác nhau, thường được nhìn thấy như màu nâu tía, màu xanh ô liu xỉn hoặc màu xám xanh. Dạng thân hình tù, giống cá chình khiến cá bơi chậm, nhấp nhô từ bên này sang bên kia, giống như một con lươn.
Đặc điểm phân biệt của cá sói Đại Tây Dương, mà từ đó nó có tên chung là cấu trúc răng mở rộng của nó. Hàm răng của nó giúp phân biệt cá sói Đại Tây Dương với tất cả các thành viên khác của họ Anarhichadidae. Cả hàm dưới và hàm trên đều được trang bị từ bốn đến sáu chiếc răng hình nón, khỏe mạnh giống như răng nanh. Phía sau răng nón ở hàm trên có ba hàng răng nghiền.
Cá sói Đại Tây Dương sử dụng bộ hàm khỏe của chúng để ăn các loài nhuyễn thể có vỏ cứng, giáp xác và da gai. Chúng không ăn các loài cá khác. Chúng được biết là thường xuyên ăn các loài Buccinum, sò huyết (Polynices, Chrysodomus và Sipho), trai biển (Mactra), cua ẩn cư lớn, sao biển, nhím biển.
Theo dữ liệu do Cục Nghề cá Biển Quốc gia tổng hợp Hoa Kỳ, kể từ năm 1983, lượng đánh bắt từ các tàu đánh cá Đại Tây Dương của Hoa Kỳ theo chuyến đánh bắt đã giảm 95%, đạt 64,7 tấn vào năm 2007. Năm 1950, khi NMFS bắt đầu hoạt động dữ liệu cho thất đã có 1.098 tấn cá sói Đại Tây Dương đã được đánh bắt, trị giá 137.008 đô la. Tuy nhiên số lượng đánh bắt lại nhanh chóng cạn kiệt và đến năm 1990, lượng khai thác loài cá này giảm xuống xuống còn 400 tấn, và đến năm 2002 là 154 tấn. Hiện nay, cá sói Đại Tây Dương được phân loại là loài cần quan tâm của Cục Thủy sản Biển Quốc gia.
Có ba nguyên do khiến lượng cá sói giảm trầm trọng: đánh bắt quá mức, lỡ lọt vào lưới đánh cá và các lưới rà quét sát đáy biển đã khiến môi trường sinh sống của cá bị ảnh hưởng. Cá sói bị liệt vào hạng "bị đánh bắt quá mức" là do cơ thể chúng quá to, mà tuổi sinh sản của chúng lại cao; thời gian để số lượng cá hồi phục sau khi bị đánh bắt quá dài, số lượng cá giảm sút trầm trọng là vì thế. Các tàu đánh cá không còn đánh bắt cá sói nữa, nhưng không có nghĩa chúng đủ khôn ngoan mà tránh được lưới.