Đồng Quán thời Bắc Tống là một trong số hoạn quan hiếm hoi trở thành tướng lĩnh, lập nhiều đại công, nhưng cuối cùng cũng phải đón nhận kết cục bi thảm.
Theo Qulishi, Đồng Quán (1054-1126), tự là Đạo Phu, là hoạn quan phục vụ dưới thời Hoàng đế Tống Huy Tông trong lịch sử phong kiến Trung Quốc.
Đồng Quán nổi bật khác thường với các hoạn quan khác bởi tính cách mạnh mẽ, thể chất tốt và thậm chí còn trở thành tướng quân nhà Bắc Tống, trong sự nghiệp lập nhiều đại công.
Đồng Quán được coi là hoạn quan mạnh mẽ nhất trong lịch sử Trung Quốc. (Ảnh minh họa).
Hoạn quan có dung mạo khác thường
Theo sử sách Trung Quốc thời Bắc Tống (960-1127), Đồng Quán được mô tả là người có tính tình nhu mì, linh hoạt; có vóc dáng cao lớn lực lưỡng và gân cốt rắn chắc, có cả râu, thoạt nhìn không giống với hoạn quan.
Đồng Quán thậm chí còn được xếp vào danh sách người đàn ông có dung mạo đẹp và hấp dẫn khó cưỡng.
Thủy Hử truyện của Thi Nại Am có đoạn miêu tả chân dung Đồng Quán: “Điểm thu hút nhất của hoạn quan Đồng Quán là chiếc cằm chẻ khác người. Gương mặt hơi vuông nhìn rất rắn rỏi, cương nghị, chững chạc, trông rất đàn ông. Mặc dù là hoạn quan nhưng râu vẫn mọc ra từ cằm”.
Cuốn sách lịch sử Trung Quốc khác miêu tả về Đồng Quán: “Không chỉ sở hữu gương mặt điển trai, góc cạnh, Đồng Quán còn có thân hình vạm vỡ của một tài tử giỏi võ nghệ. Gương mặt toát lên sự rắn rỏi nam tính nhưng không bị thô mộc với làn da rám nắng khỏe khoắn”.
Chính vì có dung mạo và khí chất khác thường, nên nhiều người trong cung hoài nghi về thân phận thực sự của Đồng Quán. Có kẻ vì ghen ghét muốn hãm hại nên tìm cách đột nhập để kiểm tra xem Đồng Quán có thực sự là hoạn quan hay không.
Theo sử sách thời Bắc Tống chép lại, Đồng Quán đã được làm lễ tịnh thân như những hoạn quan bình thường khác. Thời điểm tịnh thân khá muộn nên dường như ông vẫn giữ được một số đặc điểm của đàn ông.
Bước chân vào cung làm hoạn quan, Đồng Quán tỏ ra là một người khôn khéo, giao du rộng và biết chiều lòng người khác. Đồng Quán nhanh chóng được tin dùng, đóng vai trò thu thập sách vở cho Hoàng đế Tống Huy Tông.
Nhiều tướng lĩnh trong triều hay biếu xén quà cáp cho Đồng Quán để được hoạn quan này nói tốt với vua. Trong đội ngũ này có một nhân vật tên là Sái Kinh, nhờ được Đồng Quán giúp mà đã lên đến chức Tể tướng.
Hoàng đế Trung Quốc Tống Huy Tông.
Nhờ ân tình này mà trong một lần đem quân đi đánh Tây Hạ, Sái Kinh tiến cử Đồng Quán làm giám quân. Mặc dù có nhiều lời gièm pha vì trong lịch sử Trung Quốc khi đó, chưa từng có một hoạn quan nào được dẫn quân chiến đấu ngoài sa trường, nhưng do Sái Kinh hết lòng khen ngợi nên Hoàng đế Tống Huy Tông đồng ý.
Trong trận chiến này, Đồng Quán đã lập được nhiều chiến công vang dội, giúp đánh dẹp quân Tây Hạ làm loạn ở vùng Thiểm Tây.
Năm 1111, Đồng Quán được thăng làm Kiểm hiệu thái úy. Ông được vua Tống Huy Tông sai đi sứ nước Liêu, bất chấp có người can ngăn rằng sai hoạn quan đi sứ sẽ làm mất thể diện quốc gia.
Khi đi sứ, Đồng Quán đã có công đưa được Mã Thực bị nước Liêu giam giữ về nước. Đồng Quán kể từ đó càng được lòng vua Huy Tông. Đồng Quán không ngừng được thăng chức, trở thành Kinh quốc công, người đứng đầu quân đội nhà Bắc Tống.
Người Trung Quốc khi đó được cho là đã gọi Kinh quốc công Đồng Quán là “tướng bà” để phân biệt với “tướng ông” là Tể tướng Sái Kinh.
Nắm quyền lực trong tay, Đồng Quán bắt đầu tỏ ra cậy thế công thần, làm việc theo ý riêng, không tâu báo với Hoàng đế. Bản thân Tể tướng Sái Kinh cũng bắt đầu tỏ ra bất mãn và ghen tức với ông.
Chết thảm vì bạo ngược, phớt lờ thời thế
Biết vua Tống Huy Tống ham thích những cây cỏ lạ, đá quý, Đồng Quán sai thủ hạ là Chu Miễn thành lập Ứng phụng cục, chuyên tìm kiếm, cướp bóc những thứ quý lạ trong dân gian như ngà voi, sừng tê, cây cảnh quý, đá quý… Hàng ngàn dân phu phải làm việc ngày đêm, đem sản vật về kinh đô Biện Kinh dâng vua.
Đội quân Chu Miễn đã gây ra nhiều cảnh cướp bóc tàn bạo khiến dân chúng Giang Nam hết sức oán hận. Sự oán thán của dân chúng lên đến đỉnh điểm vào năm 1120, khi Giang Nam nổ ra cuộc khởi nghĩa nông dân mang tên Phương Lạp.
Tống Huy Tông biết tin vội hạ lệnh bãi bỏ việc tìm hoa thạch cương xoa dịu dân chúng. Hoàng đế Bắc Tống cử giao Đồng Quán làm tổng chỉ huy, thống lĩnh cầm 15 vạn cấm quân cùng quân từ các vùng lân cận đi đánh Phương Lạp.
Một năm sau đó, Đồng Quán dẹp hoàn toàn lực lượng nổi dậy Phương Lạp, bình định Giang Nam. Nhờ công lớn này, Đồng Quán được phong làm Thái sư, quyền lực sánh ngang nhiều bậc tôn vương khác trong triều.
Bước ngoặt xảy đến vào năm 1125 khi thế lực nhà Kim ở phía bắc ngày càng trỗi dậy, đe dọa xâm chiếm Bắc Tống. Đồng Quán không hề lường trước chuyện này, còn cử người đi sứ nước Kim. Nhà Kim lấy cớ yêu cầu Đồng Quán phải dâng đất, đồng thời hẹn ngày đem đại quân tràn xuống phía nam.
Dù các tướng dưới quyền hết mực khuyên bảo, Đồng Quán không dám ứng chiến mà quyết định rút về Biện Kinh. Năm 1126, Hoàng đế Tống Huy Tông nhường ngôi cho con trai là Khâm Tông, bản thân Huy Tông trở thành Thái thượng hoàng.
Đồng Quán là hoạn quan hiếm hoi trở thành tướng lĩnh trong lịch sử phong kiến Trung Quốc. (Ảnh minh họa).
Quyền lực của Đồng Quán khi đó ngày càng suy giảm. Khi đại quân nhà Kim tấn công đến cửa ngõ biên giới, Tống Khâm Tông đích thân ra trận, sai Đồng Quán ở lại giữ kinh thành.
Đồng quán cậy mình được lòng Thái thượng hoàng, tỏ ý không nghe, muốn thống lĩnh quân hộ tống Huy Tông rút về phía nam.
Khi thượng hoàng Huy Tông qua cầu phao, một số tướng sĩ trèo lên cầu khóc nức nở mong thượng hoàng ở lại ứng chiến. Nhiều dân thường cũng khóc không muốn thượng hoàng đi.
Đồng Quán sợ không đi nhanh được, bèn sai quân cung nỏ bắn vào những người muốn níu kéo Thái thượng hoàng, khiến hàng trăm người chết.
Vụ việc này đã khiến đại thần trong triều bất bình, cùng nhau tấu lên Hoàng đế. Tống Khâm Tông tức giận, giáng chức Đồng Quán.
Không lâu sau Đồng Quán bị Khâm Tông bắt đi lưu đày, sung vào quân đội ở Cát Dương. Khi ông chưa tới nơi, Khâm Tông lại sai Giám sát ngự sử Thượng Huy mang chiếu thư đuổi theo, kể 10 tội trạng rồi xử tử ngay trên đường. Đồng Quán qua đời năm 73 tuổi.
Theo các học giả Trung Quốc hiện đại, Đồng Quán được đánh giá là người tính tình rộng rãi, độ lượng. Ông cầm quân 20 năm, lập nhiều chiến công và thường tỏ ra nghiêm khắc, khiến quân sĩ sợ hãi. Do chuyên quyền cậy công, làm nhiều điều bạo ngược cùng sự trỗi dậy của nhà Kim, Đồng Quán nhận lấy kết cục bi thảm.