Rác trong mắt bạn lại là một kho báu quý giá trong mắt người khác.Tại Trung Quốc, đã từng có vô số cổ vật, thậm chí là bảo vật Quốc gia lưu lạc trong dân gian, bị coi là rác, là phế vật.
Rác trong mắt bạn lại là một kho báu quý giá trong mắt người khác. Câu nói này rất phù hợp để sử dụng trong giới khảo cổ và bảo tồn di tích văn hóa. Tại Trung Quốc, đã từng có vô số cổ vật, thậm chí là bảo vật Quốc gia lưu lạc trong dân gian, bị coi là rác, là phế vật. Nhưng vì một sự trùng hợp may mắn nào đó, chúng đã được phát hiện, lưu giữ và bảo tồn.
Những bảo vật quốc gia dưới đây là điển hình ví dụ về một quá trình gian nan từ “phế phẩm” trở về trong viện bảo tàng.
Vào tháng 8 năm 1971, Zhang Fengxiang (hán tự Trương Phong Tường), một người dân thuộc làng Sanxing Tala ở vùng Wengniute Nội Mông, bất ngờ phát hiện thấy một cái hang lấp miệng bằng các khối đá trong rừng cây.
Do tò mò, anh quyết định khám phá hang động. Ở dưới cùng của hang động, Fengxiang tìm thấy một thứ giống như một móc sắt, nhưng lúc đó anh không quan tâm tới đồ vật này. Sau khi trở về nhà, Fengxiang suy nghĩ cẩn thận, ngay cả khi nó là sắt vụn, anh cũng có thể bán lấy tiền. Vì vậy anh quay lại hang động và lấy "khối sắt vụn".
Tuy nhiên, Zhang Fengxiang đã không bán nó cho trạm thu gom phế thải mà đưa nó tới Trung tâm văn hóa Wengniute.
Vào thời điểm đó, văn hóa Hồng Sơn chưa được phát hiện. Các nhân viên của Trung tâm văn hóa cũng không biết miếng sắt đó là gì và Zhang Fengxiang cũng không biết nó có giá bao nhiêu. Một nhân viên ở đó đã chủ ý trả Fengxiang 30 nhân dân tệ để mua lại món đồ này. Về sau, mọi người mới biết rằng đây là một cổ vật quý giá thuộc thời kỳ đồ đá mới.
Là một bức tranh được vẽ trong triều đại Bắc Tống, "Minh Thanh thượng hà đồ" có lịch sử gần một ngàn năm, đồng thời cũng trải qua một quá trình triền miên lưu lạc từ cung điện tới dân gian, rồi lại từ nhân gian vào cung điện. Năm 1911, Minh Thanh thượng hà đồ, vốn được cất giữ trong cung điện nhà Thanh, sau đó bị Phổ Nghi trộm đem tới Đông Bắc của Mãn Châu Quốc. Năm 1945, khi Nhật Bản thất bại, Mãn Châu Quốc bị hủy bỏ, Phổ Nghi tháo chạy. Một số lượng lớn các bảo vật bị phá hủy. Người ta cho rằng Minh Thanh thượng hà đồ đã bị đốt cháy trong chiến tranh.
Nhưng đáng ngạc nhiên là năm 1951, khi học giả văn hóa Dương Nhân Khải dọn dẹp bảo tàng văn hóa Đông Bắc, ông lại tìm thấy bức Minh Thanh thượng hà đồ này nằm trong một đám phế phẩm.
Hàn thiết thiệp được coi là tác phẩm thư pháp thần thánh của nhà thư pháp nổi tiếng thời Đông Tấn – Vương Hi. Bút pháp đơn giản mà cảnh ý lại vô cùng cao siêu. Bức thư pháp được Phổ Nghi đưa ra khỏi cung khoảng đầu thế kỷ trước, sau đó đã mất tích trong nhiều chục năm.
Vào những năm 1960, nhiều bức tranh dân gian đã được tập trung tại trạm thu gom rác, và hầu hết chúng được ném vào lò trộn và biến thành bột giấy. Là một thẩm định viên lĩnh vực di tích văn hóa, nhiệm vụ của Lưu Quang Khởi là giải cứu các cổ vật văn hóa quý giá khỏi những đám phế phẩm, khó như việc tìm kim trong đống cỏ khô.
Một sự trùng hợp ngẫu nhiên đã xảy ra, khi Lưu Quang Khởi đang ở trong một trạm thu gom phế thải ở đường Thái Hồ, khu Hà Tây, Thiên Tân, và phát hiện một ống cuộn đựng giấy có vẻ ngoài đặc biệt. Khi mở ra, ông Lưu đã vô cùng bất ngờ khi biết đó là 2 bức thư pháp nổi tiếng của Vương Hi. Một bức là “Hàn thiết thiệp” và bức còn lại là “Can âu thiệp”, cả hai đều là báu vật thư pháp của Vương Hi đã bị Phổ Nghi đánh mất.
Đây là một cổ vật vô cùng quý giá của thời nhà Thương. Chiếc bình đựng này là vật đại diện điển hình cho các sản phẩm hũ đựng thời kỳ triều Thương đến triều Chu, miệng rộng, cổ cao, hình tròn hoặc vuông, chạm khắc đủ 12 con giáp như dê, hổ, voi, ngựa, phượng hoàng... Sau xuân thu chiến quốc, loại hình hũ bình này ít thấy hơn.
Chiếc bình cổ này được một số nông dân ở Hồ Nam đào thấy vào năm 1938. Sau đó, nó được bán cho nhà buôn đồ cổ với giá 248 đồng tiền đại dương thời đó. Khi những nhà buôn này phá sản, chiếc bình cổ lại được chính phủ dân quốc tìm thấy và thu lại.
Trong Thế chiến II sau đó, Trường Sa bị quân đội Nhật ném bom, chiếc bình cổ cũng mất dấu vết. Mãi đến năm 1952, dưới sự truy tìm của sở văn hóa và di tích cổ vật, chiếc bình được tìm thấy ở góc của một nhà kho ngân hang trong tình trạng đã vỡ thành hàng chục mảnh. Sau gần một năm sửa chữa, chiếc bình đã khôi phục nguyên dạng và trở thành bảo vật quốc gia.
Cổ vật này là bằng chứng, là ghi chép sớm nhất có nhắc đến từ “Trung Quốc”. Chiếc bình có khắc 12 dòng, bao gồm 122 chữ, trong đó có nhắc tới 4 chữ “ Trạch từ Trung Quốc”, ghi chép lại việc Thành vương kế thừa Võ vương, xây dựng lên Chu Thành ( nay là Lạc Dương).
Năm 1963, chiếc bình được một người nông dân tìm thấy trên một vách đá bẩn phía sau nhà. Người nông dân không biết chiếc bình này la gì, liền mang đặt trong nhà làm hũ đựng thực phẩm. Sau đó, người này đã bán chiếc bình dưới dạng sắt vụn với giá 30 nhân dân tệ! Sau đó, chiếc binh may mắn được một chuyên gia ở viện bảo tàng phát hiện thấy ở kho phế thải và thu mua lại.
Đây là một cổ vật bằng đồng thau thời Tây Chu đang được lưu giữ tại bảo tàng Bắc Kinh. Cổ vật này đã có hơn 3000 năm lịch sử, phía trong có khắc 198 chữ, ghi chép lại việc Mao Bách Ban dẹp loạn, được vua Chu khen thưởng. Cổ vật này được khai quật sớm nhất là vào thời Bắc Tống, và từ đó được đưa vào bộ sưu tập đồ cổ trong cung đình. Tuy nhiên, vào năm 1900, khi đồng minh 8 nước tiến vào Trung Quốc, nó đã biến mất trong chiến tranh.
Mãi đến hơn 70 năm sau, cổ vật này mới được các nhân viên làm việc tại khu di tích văn hóa ở Bắc Kinh tìm thấy trong một đống sắt vụn sắp được gửi đến lò nung, nơi mang lại cho kho báu quốc gia này một cuộc sống thứ hai!
Chiếc bình khắc chữ thời nhà Thương này hiện đang được lưu giữ trong bảo tàng Hồ Nam. Nó được phát hiện vào năm 1962. Khi đó chuyên gia di tích văn hóa đang dạo qua các khu trung tâm thu hồi phế liệu để truy tìm những bảo vật quốc gia thì vô tình phát hiện ra chiếc bình này.
Đồng phế liệu từ trạm tái chế được thu hồi từ nhiều nơi khác nhau và tại thời điểm đó, các chuyên gia đã chú ý tới một mảnh đồng khá đặc biệt. Họ cảm thấy nó khác với những miếng đồng vụn khác nên đã có động lực tìm và khám phá thêm.
Sau đó, họ đã tìm thấy hơn 200 mảnh đồng trong đám sắt vụn đó, được chứa vào 27 chiếc túi. Và sau một thời gian lắp ghép sửa chữa, bảo vật này đã khôi phục lại nguyên trạng như chúng ta thấy ngày nay.
Năm 1967, tại một một trạm thu gom phế liệu ở Thỏa Đức, tỉnh Thiểm Tây, một nhân viên di tích văn hóa đã tinh mắt nhìn thấy một món đồ chuẩn bị được đưa vào lò nung với diện mạo “bất thường”.
Sau khi qua giám định, được biết đây là một chiếc bình bằng đồng tinh xảo trong thời Chiến Quốc, là một bảo vật văn hóa hạng nhất quốc gia. Chiếc bình chim này có một giá trị văn hóa và nghệ thuật vô giá.
Đồ cổ là thứ rất quý giá. Chúng không chỉ phản ánh trí tuệ của con người thời cổ đại mà còn là bằng chứng để người hiện đại tìm hiểu về quá khứ ngàn xưa. Người bình thường rất khó để phân biệt được tính xác thực cũng như giá trị của những loại đồ cổ. Có người may mắn khám phá ra đồ cổ mà không biết giá trị thực nên coi như đồ vật bình thường.
Một ngày nọ vào năm 1957, Yên Tư Nghĩa, một nông dân ở thôn Thái Bình khi đang cày xới đất ở phía đông làng, đột nhiên thấy cầy đâm vào vật cứng. Ông nghĩ đó là một hòn đá. Nhưng khi ông tiếp tục đào, thì lại tìm thấy một món đồ bằng sứ có hình dạng con chim, mà ông không hề biết đây chính là cổ vật nổi tiếng sau này – Đào Ưng Đỉnh (đỉnh bằng sứ, hinh chim ưng).
Nghĩ cái hũ này vẫn còn sử dụng được, ông mang về dùng làm bát đựng thức ăn cho gà cũng rất hợp lý. Người đàn ông này không hề hay biết cái hũ gốm đó thực ra là di vật văn hóa hạng nhất. Một năm sau khi nhặt được hũ gốm, nhóm chuyên gia khảo cổ phát hiện ra di chỉ Văn hóa Yangshao (Văn hóa Ngưỡng Thiều) tại thôn Tuyền Hộ thuộc huyện Hoa gần đó.
Ông lão lúc đó mới chợt nhớ tới hũ gốm mình nhặt được cách đây 1 năm. Ông thầm nghĩ, làng Thái Bình gần ngay làng Tuyền Hộ, tiện các nhà khảo cổ đang điều tra ở gần đó, chi bằng mang hũ gốm tới đó nhờ các chuyên gia xem hộ.
Ông đem hũ gốm tới chỗ các nhà khảo cổ học và kể về quá trình nhặt được vật này. Sau khi kiểm định cẩn thận, các chuyên gia xác nhận rằng đó là Đào Ưng Đỉnh thuộc thời kỳ đồ đá mới.
Đào Ưng Đỉnh có vẻ ngoài đơn giản của hình con chim ưng, cao 35,8 cm, đường kính 23,3 cm. Sau khi biết rằng đó là bảo vật quý giá, ông lão vô cùng ngạc nhiên và lập tức trao Đào Ưng Đỉnh lại cho đội khảo cổ.
Nhờ đó mà di vật này được nhiều người biết đến, hiện nó được lưu trữ và bảo vệ trong Bảo tàng quốc gia Trung Quốc.
Cao tử qua là vũ khí của thời kỳ xuân thu chiến quốc, là một bảo vật văn hóa hạng nhất, hiện đang được lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Nhà nước ở Sơn Đông, Trung Quốc. Cổ vật này được phát hiện lần đầu tiên vào năm 1970, khi một cậu bé nông thôn coi la sắt vụn và đem bán với giá 5,97 nhân dân tệ. Sau đó, nó lưu lạc một thời gianvà được sở văn hóa và di tích lịch sử phát hiện và thu hồi. Cho đến 16 năm sau, cậu bé nông thôn người phát hiện ra Cao tử qua đã trưởng thành. Một lần ông tới viện bảo tàng và nhận ra miếng sắt vụn ông bán năm nào đã trở thành báu vật quốc gia, được triển lãm toàn quốc. Ông liền kể cho các nhân viên ở bảo tàng câu chuyện ngày bé khi ông tìm thấy Cao tử qua.