Nghiên cứu khoa học là một quá trình gian khổ và cũng ẩn chứa rất nhiều hiểm nguy. Các nhà khoa học có thể gặp các chấn thương không mong muốn, bị ốm hoặc thậm chí tử vong để đạt tới đích của vấn đề họ nghiên cứu. Dưới đây là một số nhà khoa học đã hy sinh vì những nghiên cứu của chính mình trong quá trình làm thí nghiệm.
Ông là nhà hóa dược học thiên tài đã phát hiện ra rất nhiều nguyên tố, trong đó nổi tiếng nhất là oxy (mặc dù nghiên cứu này sau đó được nhà khoa học Joseph Priestly xuất bản trước), molipden, vonfram, mangan và clo.
Carl Scheel
Vào thời đại của ông, chưa có các biện pháp bảo đảm an toàn lao động cũng như người ta chưa biết hết về độc tính của các loại hóa chất. Carl còn có một thói quen xấu là sử dụng tất cả các giác quan để tiếp xúc với hóa chất, nhất là khứu giác và vị giác. Trong một lần thử hydro xyanua, mặc dù ông nghĩ mình sẽ an toàn nhưng do sự tích tụ cùng lúc các chất thủy ngân, chì, axit flohydric và một số chất khác đã khiến ông tử vong vì nhiễm độc kim loại nặng ở tuổi 44.
Sau khi nhà khoa học Wilhelm Conrad Röntgen phát minh ra tia X, cô gái người California Elizabeth Fleischman Ascheim đã từ bỏ công việc của một người thủ thư để theo học trường điện. Với sự sáng dạ của mình, cô nhanh chóng tốt nghiệp và mở cho mình phòng khám sử dụng tia X đầu tiên trên toàn nước Mỹ. Cùng với anh chồng của mình - một nhà vật lý học, cô đã say mê nghiên cứu về tác dụng của phương pháp chụp X-quang. Cả hai người đã dành nhiều ngày để chụp X-quang cơ thể nhau nhằm mục đích nghiên cứu.
Elizabeth Fleischman Ascheim
Cô đã chữa trị cho rất nhiều binh sĩ trong chiến tranh Mỹ - Tây Ban Nha rồi sau đó theo học chuyên ngành nha khoa, đồng thời cũng là một nhà nghiên cứu nổi tiếng trong lĩnh vực phóng xạ. Tuy nhiên, cô đã không hề tiến hành bất cứ biện pháp bảo hộ nào trong khi nghiên cứu cũng như chữa trị cho các bệnh nhân vì theo cô nói, nếu cô dùng đồ bảo hộ thì bệnh nhân sẽ cảm thấy không thoải mái và an toàn. Cô đã bị nhiễm độc phóng xạ và mất năm 46 tuổi, và được xem như một người anh hùng trong lĩnh vực nghiên cứu phóng xạ.
Alexander Bogdanov là nhà khoa học nổi tiếng người Nga. Ông đồng thời cũng là một bác sĩ, nhà kinh tế, nhà triết học, nhà khoa học tự nhiên, nhà văn viễn tưởng, nhà thơ, giáo viên, chính trị gia, nhà cách mạng và là người tiên phong của môn điều khiển học và khoa học tổ chức.
Alexander Bogdanov
Ông cũng là người sáng lập viện nghiên cứu về truyền máu đầu tiên trên thế giới - Viện truyền máu Liên Xô - vào năm 1926. Ông đã thực hiện 11 lần truyền máu vào chính cơ thể mình với tuyên bố truyền máu sẽ chữa khỏi bệnh hói đầu và cải thiện thị lực của ông. Thật không may, trong lần truyền cuối cùng, ông đã bị nhiễm sốt rét và lao rồi tử vong sau đó, để lại những nghiên cứu có giá trị về truyền máu cho con người.
Việc Henri Becquerel phát hiện ra phóng xạ năm 1896 đã khơi nguồn cảm hứng cho các nghiên cứu của đôi vợ chồng nhà khoa học nổi tiếng, Marie và Pierre Curie. Những nghiên cứu và phân tích tuyệt vời của họ đã tách được hai chất phóng xạ là poloni và radi.
Vợ chồng Marie-Pierre Curie
Marie đã dành cuộc sống của mình tiến hành nghiên cứu bức xạ và nghiên cứu bức xạ trị liệu, nhưng do bà phải tiếp xúc liên tục với chất phóng xạ, bà đã bị bệnh bạch cầu và qua đời năm 1934. Trong số rất nhiều giải thưởng, bà là người duy nhất nhận được hai giải thưởng Nobel ở hai lĩnh vực khác nhau: hóa học và vật lý.
Haroutune (Harry) K. Daghlian Jr
Nhà vật lý học người Mỹ Harry Daghlian đã tham gia vào kế hoạch Manhattan nổi tiếng tại phòng thí nghiệm quốc gia ở Los Alamos, New Mexico. Vào ngày 21/8/1945, trong một thí nghiệm về khối lượng, ông đã vô ý làm rơi một viên gạch vonfram cacbua vào lõi bom plutonium. Để tránh các phản ứng có hại xảy ra, ông phải dùng tay để nhấc gạch ra. Điều này đã làm ông bị nhiễm một lượng lớn phóng xạ và tử vong 25 ngày sau đó.
Malcolm Casadaban
Giáo sư về di truyền học phân tử và sinh học tế bào và vi sinh học tại Đại học Chicago, Malcolm Casadaban đã thực hiện nghiên cứu trong phòng thí nghiệm về một loại vi khuẩn gây bệnh truyền nhiễm để rồi sau đó chính ông cũng bị nhiễm bệnh và tử vong. Theo Trung tâm kiểm soát dịch bệnh và báo cáo phòng chống về vụ việc, vi khuẩn đã giết chết Malcolm và đồng thời cũng làm những nhân viên trong phòng thí nghiệm tử vong. Ông được chẩn đoán là nhiễm cả bệnh hemochromatosis, tức rối loạn chuyển hóa chất sắt sau khi tử vong.
Richard Din là một nhà khoa học làm việc tại Viện Nghiên cứu và Giáo dục Bắc California với nhiệm vụ nghiên cứu về một loại vắc-xin có tác dụng ngăn chặn vi khuẩn Neisseria meningitides - loại vi khuẩn gây chứng viêm màng não và nhiễm trùng máu. Trong quá trình nghiên cứu, Richard cảm thấy nhức đầu và buồn nôn, và vào sáng hôm sau các triệu chứng đã xấu đi nhanh chóng khiến Richard phải nhập viện. Richard Din đã chết 17 giờ sau khi các triệu chứng xuất hiện lần đầu tiên. Nguyên nhân là do anh đã bị nhiễm vi khuẩn viêm màng não.
Richard Din (phải)
Không có sự cố hay tai nạn nào xảy ra trong khi nghiên cứu, và Din cũng được biết đến là một người rất cẩn thận và kỹ tính trong công việc. Tuy nhiên anh đã không tiêm phòng viêm màng não theo khuyến cáo của Trung tâm kiểm soát dịch bệnh CDC, và đây rất có thể là nguyên nhân gây tử vong mặc dù dòng vi khuẩn Din đang nghiên cứu có thể kháng lại vắc-xin. May mắn là những người tiếp xúc với Din đã được điều trị kịp thời bằng kháng sinh và không ai trong số họ nhiễm bệnh.