Người Mỹ da đỏ có nhiều bộ lạc khác nhau với nền văn hóa và truyền thống đặc sắc, nhưng lại ít được nhắc tới.
Kể từ thời xa xưa, người Mỹ bản địa (hay còn gọi là thổ dân da đỏ, người Anh-điêng) đã sinh sống trên lục địa Bắc Mỹ, từ phía bắc Alaska đến bờ vịnh Florida. Hiện nay, có hơn 9 triệu người Mỹ bản địa sinh sống tại đất nước cờ hoa, đại diện cho hàng trăm bộ lạc với ngôn ngữ, văn hóa và truyền thống vô cùng đa dạng. Sau đây là một vài sự thật thú vị về lịch sử và văn hóa phong phú của người Anh-điêng.
Người Mỹ da đỏ mặc trang phục chuẩn bị biểu diễn một điệu nhảy truyền thống. (Ảnh: National Park Service)
Bắc Mỹ là quê hương của hơn 300 ngôn ngữ khác nhau. Tuy nhiên, sau khi trở thành thuộc địa, phần nhiều ngôn ngữ trong số này đã biến mất do chính sách đồng hóa của chính phủ. Năm 1868, Tổng thống Ulysses Grant tuyên bố: “Hai phần ba rắc rối của chúng ta nằm ở sự khác biệt về ngôn ngữ ngày nay… Phương ngữ man rợ của họ nên bị xóa bỏ và thay vào đó là tiếng Anh”.
Bắt đầu từ những năm 1800, người Mỹ bản địa phải di dời khỏi cộng đồng của họ và chuyển đến các khu bảo tồn được chính phủ quy định. Trẻ em Anh-điêng nhập học các trường nội trú dành cho người da đỏ và tham gia học tập bằng tiếng Anh. Mãi cho đến năm 1972, khi Quốc hội Mỹ thông qua Đạo luật Giáo dục Da đỏ, các bộ tộc người Mỹ bản địa mới được phép dạy ngôn ngữ truyền thống của họ.
Theo Cục điều tra dân số Mỹ, tính đến năm 2013, có 169 ngôn ngữ bản địa được dùng trong sinh hoạt hàng ngày của người Anh-điêng. Nhiều ngôn ngữ trong số này có số lượng người nói rất nhỏ. Năm 1990, Quốc hội Mỹ thông qua Đạo luật Ngôn ngữ của người Mỹ bản địa, cung cấp hỗ trợ cho việc bảo tồn và phục hồi ngôn ngữ của người da đỏ. Tuy nhiên, tính tới nay, đại đa số 300 ngôn ngữ bị dự đoán có nguy cơ biến mất.
Trước khi thuộc địa hóa, các ngôn ngữ của người da đỏ được truyền miệng là chủ yếu. Sau khi người châu Âu thực hiện thuộc địa hóa, một số bộ lạc bắt đầu áp dụng hệ thống chữ viết. Một thành viên của bộ lạc Cherokee tên là Sequoyah đã dành 12 năm phát triển một hệ thống chữ viết để người dân bộ lạc có thể học đọc và viết bằng ngôn ngữ của mình. Ông hoàn thành bảng âm tiết gồm 86 ký tự vào năm 1821.
Bởi vì âm tiết được tạo ra để thể hiện những âm cụ thể của ngôn ngữ Cherokee nên người Cherokee rất dễ học. Cushman nói: “Trong khoảng thời gian từ 3 tháng đến 3 năm, hầu hết bộ lạc thể đọc và viết bằng ngôn ngữ này”.
Vào ngày 21/2/1828, ấn bản đầu tiên của tờ Cherokee Phoenix được xuất bản tại vùng đất của người Cherokee tại bang Georgia. Đây là tờ báo song ngữ đầu tiên ở Mỹ, nó được in bằng cả tiếng Anh và tiếng Cherokee.
Trong số 574 bộ lạc này, 229 sống tại tiểu bang Alaska - tiểu bang lớn nhất tai Mỹ. California có 109 bộ lạc được liên bang công nhận, cao thứ hai toàn quốc. Đây là cũng là bang có nhiều người da đỏ sinh sống nhất.
Các bộ lạc được liên bang công nhận này đứng độc lập với Mỹ, giống như các quốc gia có chủ quyền khác. Tuy nhiên, nhiều bộ lạc không được liên bang công nhận, có nghĩa là họ không đủ điều kiện nhận các chương trình và hỗ trợ của chính phủ.
Tính đến năm 2020, 66 bộ lạc trên 13 bang được công nhân theo từng bang. Tuy sự công nhận này không đem đến cho họ quyền lợi từ liên bang, nhưng cũng là bước thừa nhận sự tồn tại của văn hóa và lịch sử đương đại của họ.
Bức tranh năm 1951 của Blackbear Bosin, mô tả cuộc di cư cực khổ của người da đỏ. (Ảnh: Getty Image).
Các bộ lạc người Mỹ da đỏ trước đây có nền nông nghiệp phong phú, với nhiều cây trồng địa phương trở thành những món ăn quen thuộc trên toàn cầu. Nhiều bộ lạc đã thuần hóa các loại cây trồng mà chúng ta vẫn ăn ngày nay. Vào năm 2016, các chuyên gia ước tính rằng có tới 60% nguồn cung cấp lương thực toàn cầu dựa trên các loại cây trồng có nguồn gốc từ Bắc Mỹ.
Ngô được tạo ra bởi những người nông dân bản địa ở miền Nam Mexico và Guatemala trong khoảng 10.000 năm trước. Người Mỹ bản địa cũng thuần hóa các loài cây quen thuộc như đậu, bí, khoai tây và cà chua.
Còn được người Pháp gọi là liên minh Iroquois, liên minh Haudenosaunee được thành lập bởi 5 quốc gia bộ lạc: Mohawk, Oneida, Onondaga, Cayuga và Seneca. Một số nhà nghiên cứu tin rằng liên minh này được thành lập vào năm 1142, trong khi liên minh này nói rằng họ đã tồn tại từ thời xa xưa. Dù là con số nào, liên minh Haudenosaunee được coi là một trong những nền dân chủ lâu đời nhất trên Trái đất.
Các quốc gia được thống nhất bởi Kaianere'ko:wa (Great Law of Peace - Đại Luật Hòa bình), đóng vai trò như hiến pháp của riêng họ. Quốc gia thứ 6, Tuscarora, gia nhập Liên minh này vào thế kỷ 18.
“Nhiều bộ lạc theo chế độ dân chủ, nhưng Liên minh Haudenosaunee bao gồm nhiều bộ lạc, trải dài trên một khu vực địa lý rộng lớn. Đây là điểm khác biệt của họ”, tiến sĩ Donald A. Grinde, tác giả cuốn Exemplar of Liberty tại Đại học Buffalo nhận định.
Nghiên cứu của giáo sư Grinde tập trung vào ảnh hưởng của liên minh Haudenosaunee đối với Hiến pháp Mỹ. “Có ba đóng góp chính”, giáo sư cho biết, “Thứ nhất, chủ quyền đó thuộc về nhân dân. Thứ hai là phân lập quyền lực, chia ra các cơ quan nhà nước khác nhau. Và thứ ba là bản thân hiến pháp, với các điều khoản có thể được trích dẫn, tương tự như cách Haudenosaunee đọc Đại Luật Hòa bình của họ mỗi năm”. Không giống như Hiến pháp Mỹ, phụ nữ đóng một vai trò tích cực trong nền dân chủ Haudenosaunee.
Vào năm 1830, Tổng thống Andrew Jackson đã ký Indian Removal Act - Đạo luật Loại bỏ Người da đỏ. Đạo luật này nảy sinh do mong muốn định cư của người da trắng trên những vùng đất màu mỡ của bộ lạc Choctaw, Cherokee, Creek và các bộ lạc khác.
Đạo luật này buộc người Mỹ bản địa rời khỏi các Alabama, Florida, Georgia, North Carolina và Tennessee, và di dời tới “lãnh thổ của người da đỏ” tại vùng đất tiền thân của bang Oklahoma. Hàng ngàn người đã chết trong cuộc di cư bắt buộc này.
Đạo luật Công dân Da đỏ - Indian Citizenship Act được Tổng thống Calvin Coolidge ký thành luật vào ngày 2/6/1924. Trước đó, một số người Mỹ da đỏ đã được coi là công dân Mỹ, nhờ Đạo luật Dawes năm 1887, trao quyền công dân cho những người chấp nhận trợ cấp đất đai.
Tuy nhiên, mặc dù họ đã có quyền công dân đầy đủ trên danh nghĩa, nhiều người Mỹ bản địa vẫn bị ngăn cấm bầu cử. Quyền bỏ phiếu thuộc về từng bang, và nhiều bang tiếp tục từ chối quyền bầu cử đối với người Mỹ bản địa trong nhiều thập kỷ.
Ngoài ra, các bang sử dụng các biện pháp phân biệt chủng tộc để hạn chế khả năng tiếp cận các cuộc bầu cử của người Anh-điêng. Ví dụ, nhiều bang áp dụng bài kiểm tra đọc viết trước khi cho phép bỏ phiếu, cản trở người Mỹ bản địa (và những tộc người khác) - những người không biết đọc và viết tiếng Anh. Những thông lệ này vẫn tiếp tục cho đến khi Đạo luật Quyền bỏ phiếu (Voting Rights Act) được thông qua vào năm 1965.
Tranh vẽ thể hiện nền văn hóa phong phú của người Mỹ da đỏ. (Ảnh: American Indian Republic).
Vùng đất của người Navajo có diện tích gần 25.000 dặm vuông - diện tích tương đương với bang West Virginia, và hơn gấp đôi Maryland. Vùng đất này mở rộng sang các bang Arizona, New Mexico và Utah.
Vào năm 2021, Quốc gia Navajo cũng đã vượt qua vùng Cherokee để trở thành bộ tộc lớn nhất tính theo dân số, với gần 400.000 dân được ghi nhận. Và hiển nhiên, vùng đất này trở thành trung tâm của rất nhiều ngôn ngữ người da đỏ.
Có khoảng 326 vùng đất bộ lạc tại Mỹ, và chính quyền liên bang công nhận 574 bộ lạc. Tuy nhiên, vùng đất riêng của các bộ lạc trung bình chỉ rộng khoảng 2,6% so với lãnh thổ trước khi bị thuộc địa hóa. Nhiều bộ lạc khi bị bắt di dời, họ mất hết tất cả đất đai.
Một nghiên cứu năm 2014 của Bộ Nhà ở và Phát triển Đô thị Mỹ cho thấy 68% người Mỹ da đỏ và người Alaska bản địa sống trên hoặc gần quê hương của họ.