Những sử dụng đầu tiên (thời văn minh Cổ đại)
Ở miền Trung Ðông, những hydrocarbures được dùng đầu tiên. Theo Thánh kinh, đó là chất nhựa đường (asphalte hay bitume) mà NOÉ đã xảm thuyền (calfater) cho cái tàu của ông (arche) và mẹ của MOÏSE đã phết vô nôi của con trai bà trước khi thả trên sông NIL.
Những người Ai Cập cũng dùng để bảm đảm sự bảo quản những xác ướp (momie) của họ.
Tác phẩm DE RE METALLICA của nhà khoáng vật học Georg BAUER (Ảnh: civilization) |
CHƯNG CẤT: (Distillation)
Nguồn gốc của phương pháp chưng cất thường được khám phá ra một cách tình cờ cho những lần đầu tiên nhất của lịch sử dầu hỏa bị lẫn lộn với những lần sử dụng đầu tiên.
Năm 1556, nhà khoáng vật học (minéralogiste) Ðức Georg BAUER, thường gọi là GEORGIUS AGRICOLA, trong tác phẩm DE RE METALLICA của ông, chỉ cách thức biến chế dầu lửa thô thành dầu hắc (goudron) để sơn phết.
Năm 1650, sự chưng cất dầu hỏa thô (pétrole brut) đến độ sôi, cho phép ta thu được thuốc đánh bóng (vernis), sáp, mỡ, dầu thắp đèn.
XĂNG (1855)
Năm 1855, người Mỹ B. SILLIMAN, khai thác trên những nghiên cứu về dầu hỏa do những hóa học gia Âu Châu, đã tìm ra một loạt nghiên cứu về chưng cất. Ông đã thành công và được một số sản phẩm: dầu hắc, dầu nhờn (huile lubrifiante), naphta (hỗn hợp hydrocarbure), những dung môi (solvant) cho sơn và xăng (như một hóa chất để tẩy sạch (détachant) lúc bấy giờ được xem như một chất thứ yếu (produit mineur).
DẦU ÐỐT ÐÈN (1860)
Tuy nhiên, dầu được dùng để dốt đèn thực sự ở Âu Châu vào năm 1860.
KÉROSÈNE (1860)
Cùng thời, Samuel KIER chưng cất dầu thô và bán một phần của sự chưng cất này dưới tên KÉROSÈNE. Samuel KIER là người sáng chế ra "nhựa thơm Kier" (baume de Lier) mà ông bán cho các nhà thuốc tây tại New York tụ chưng cất chất lỏng đen lấy trên những làn nước: dầu thô (nappe d'eau)